Cúc ngũ sắc, duyên cúc, hoa cánh giấy[1], cúc zinnia, di nha, bạch nhật[2], đôi khi còn được gọi là cúc ta (danh pháp hai phần: Zinnia elegans) là một loài thực vật có hoa đơn niên thuộc họ Cúc (Asteraceae).
Cây cúc ngũ sắc trong tự nhiên có thể cao đến 1 m. Các lá không có cuống, mọc đối nhau; phiến lá xoan bầu dục, có lông. Các hoa đơn có đường kính 5–10 cm, nhiều màu. Hoa bìa có vành hình môi to, lâu tàn.
Loài này được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1789 tại Tixtla, Guerrero bởi Sessé và Mociño, và lần đầu tiên được mô tả khoa học là Zinnia violacea bởi Cavanilles vào năm 1791. Sau đó, năm 1792, Jacquin mô tả lại loài này với tên Zinnia elegans, cũng là tên mà Sessé và Moçiño đã dùng trong bản thảo Plantae Novae Hispaniae — đã không được phát hành cho đến năm 1890.[3] Tên chi Zinnia đã được Carl von Linné đặt theo tên nhà thực vật học Đức Johann Gottfried Zinn, người đã mô tả loài Zinnia peruviana vào năm 1757 là Rudbeckia foliis oppositis hirsutis ovato-acutis, calyce imbricatus, radii petalis pistillatis. Linné sau đó nhận ra rằng loài này không thuộc về chi Rudbeckia.
Cúc ngũ sắc, duyên cúc, hoa cánh giấy, cúc zinnia, di nha, bạch nhật, đôi khi còn được gọi là cúc ta (danh pháp hai phần: Zinnia elegans) là một loài thực vật có hoa đơn niên thuộc họ Cúc (Asteraceae).