dcsimg

Sói Á Âu ( 越南語 )

由wikipedia VI提供

Sói Á Âu (Canis lupus lupus), cũng gọi là sói xám thông thường[2] hoặc sói xám rừng Trung Nga,[3] là một phân loài của sói xám. Loài sói này là loài bản địa châu Âu và khu rừng và thảo nguyên của Liên Xô cũ. Nó đã từng phổ biến rộng rãi khắp châu Âu trước thời Trung Cổ. Ngoài một bản ghi cổ sinh vật học và di truyền học rộng lớn, [4] các ngôn ngữ Ấn-Âu thường có một vài từ cho sói, do đó chứng thực sự phong phú và ý nghĩa văn hóa của loài động vật này. [5]Phân loài này đã được coi trọng cao trong Baltic, Celtic, Slavic, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp cổ đại, La Mã, và nền văn hóa Thracian, trong khi có một danh tiếng thương ghét lẫn lộ trong nền văn hóa Giéc Manh sớm. [6]

Đây là loài sói xám Cựu Thế giới lớn nhất, cân nặng trung bình 39 kg (86 lb) ở châu Âu;[7] tuy nhiên, những cá thể đặc biệt lớn đã cân nặng giữa 69–80 kg (152–176 lb), mặc dù điều này thay đổi theo vùng.[3][8] Lông của chúng tương đối ngắn và thô,[2] và thường có màu vàng nâu, với màu trắng trên cổ họng chỉ kéo dài đến má.[8] chứng nhiễm hắc tố, chức hắc tốchứng màu đỏ đặc biệt ở phân loài sói xám này rất hiếm, và chủ yếu là kết quả của lai chó sói.[9] Tiếng hú của con sói Á-Âu được kéo dài hơn nhiều và du dương hơn so với phân loài sói xám Bắc Mỹ, có tiếng hú to hơn và có trọng tâm mạnh hơn về âm tiết đầu tiên. Tuy nhiên, cả hai đều có thể hiểu lẫn nhau, như những con sói Bắc Mỹ đã được ghi lại để đáp ứng với tiếng hú kiểu châu Âu do các nhà sinh vật học tạo ra.[10]

Nhiều quần thể chó sói châu Âu buộc phải sống chủ yếu bằng gia súcrác thải ở những khu vực có hoạt động dày đặc của con người, mặc dù hoang dã động vật móng guốc như nai, hươu đỏ, hoẵng châu Âulợn rừng vẫn là nguồn thực phẩm quan trọng nhất ở Nga và các khu vực miền núi Đông Âu. Các loài mồi khác bao gồm tuần lộc, cừu Argali, mouflon, bò bizon châu Âu, saiga, capra, sơn dương Chamois, dê hoang dã, hươu hoanghươu xạ hương.[11]


Tham khảo

  1. ^ Wozencraft, W. C. (2005). “Order Carnivora”. Trong Wilson, D. E.; Reeder, D. M. Mammal Species of the World . Nhà in Đại học Johns Hopkins. ISBN 978-0-8018-8221-0. OCLC 62265494.
  2. ^ a ă Mech, L. David (1981), The Wolf: The Ecology and Behaviour of an Endangered Species, University of Minnesota Press, p. 354, ISBN 0-8166-1026-6
  3. ^ a ă Heptner, V. G. & Naumov, N. P. (1998) Mammals of the Soviet Union Vol.II Part 1a, SIRENIA AND CARNIVORA (Sea cows; Wolves and Bears), Science Publishers, Inc. USA., pp. 184-187, ISBN 1-886106-81-9
  4. ^ O. Thalmann et al., "Complete Mitochondrial Genomes of Ancient Canids Suggest a European Origin of Domestic Dogs", Science, November 14, 2013, 342(6160):871-4, DOI: 10.1126/science.1243650
  5. ^ Gamkrelidze, T. V. & Ivanov, V. V. (1995), Indo-European and the Indo-Europeans: A Reconstruction and Historical Analysis of a Proto-Language and Proto-Culture, Walter de Gruyter, pp. 413-417, ISBN 3110815036
  6. ^ Lỗi chú thích: Thẻ sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên boitani2005
  7. ^ http://www.lhnet.org/gray-wolf/
  8. ^ a ă Miller, G. S. (1912), Catalogue of the mammals of Western Europe (Europe exclusive of Russia) in the collection of the British museum, London, Printed by order of the Trustees of the British Museum, pp. 313-314
  9. ^ Heptner, V. G. & Naumov, N. P. (1998) Mammals of the Soviet Union Vol.II Part 1a, SIRENIA AND CARNIVORA (Sea cows; Wolves and Bears), Science Publishers, Inc. USA., pp. 166, ISBN 1-886106-81-9
  10. ^ Zimen, E. (1981), The Wolf: His Place in the Natural World, Souvenir Press, p. 73, ISBN 0-285-62411-3
  11. ^ Peterson, R. O. & Ciucci, P. (2003), "The Wolf as a Carnivore", in Wolves: Behavior, Ecology, and Conservation, edited by L. David Mech and Luigi Boitani, pp. 104-130, Chicago: University Press
許可
cc-by-sa-3.0
版權
Wikipedia tác giả và biên tập viên
原始內容
參訪來源
合作夥伴網站
wikipedia VI

Sói Á Âu: Brief Summary ( 越南語 )

由wikipedia VI提供

Sói Á Âu (Canis lupus lupus), cũng gọi là sói xám thông thường hoặc sói xám rừng Trung Nga, là một phân loài của sói xám. Loài sói này là loài bản địa châu Âu và khu rừng và thảo nguyên của Liên Xô cũ. Nó đã từng phổ biến rộng rãi khắp châu Âu trước thời Trung Cổ. Ngoài một bản ghi cổ sinh vật học và di truyền học rộng lớn, các ngôn ngữ Ấn-Âu thường có một vài từ cho sói, do đó chứng thực sự phong phú và ý nghĩa văn hóa của loài động vật này. Phân loài này đã được coi trọng cao trong Baltic, Celtic, Slavic, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp cổ đại, La Mã, và nền văn hóa Thracian, trong khi có một danh tiếng thương ghét lẫn lộ trong nền văn hóa Giéc Manh sớm.

Đây là loài sói xám Cựu Thế giới lớn nhất, cân nặng trung bình 39 kg (86 lb) ở châu Âu; tuy nhiên, những cá thể đặc biệt lớn đã cân nặng giữa 69–80 kg (152–176 lb), mặc dù điều này thay đổi theo vùng. Lông của chúng tương đối ngắn và thô, và thường có màu vàng nâu, với màu trắng trên cổ họng chỉ kéo dài đến má. chứng nhiễm hắc tố, chức hắc tốchứng màu đỏ đặc biệt ở phân loài sói xám này rất hiếm, và chủ yếu là kết quả của lai chó sói. Tiếng hú của con sói Á-Âu được kéo dài hơn nhiều và du dương hơn so với phân loài sói xám Bắc Mỹ, có tiếng hú to hơn và có trọng tâm mạnh hơn về âm tiết đầu tiên. Tuy nhiên, cả hai đều có thể hiểu lẫn nhau, như những con sói Bắc Mỹ đã được ghi lại để đáp ứng với tiếng hú kiểu châu Âu do các nhà sinh vật học tạo ra.

Nhiều quần thể chó sói châu Âu buộc phải sống chủ yếu bằng gia súcrác thải ở những khu vực có hoạt động dày đặc của con người, mặc dù hoang dã động vật móng guốc như nai, hươu đỏ, hoẵng châu Âulợn rừng vẫn là nguồn thực phẩm quan trọng nhất ở Nga và các khu vực miền núi Đông Âu. Các loài mồi khác bao gồm tuần lộc, cừu Argali, mouflon, bò bizon châu Âu, saiga, capra, sơn dương Chamois, dê hoang dã, hươu hoanghươu xạ hương.


許可
cc-by-sa-3.0
版權
Wikipedia tác giả và biên tập viên
原始內容
參訪來源
合作夥伴網站
wikipedia VI