Mycobacterium heidelbergense is a Gram-positive, nonmotile, acid-fast coccobacillus. It is a species of the phylum Actinomycetota (Gram-positive bacteria with high guanine and cytosine content, one of the dominant phyla of all bacteria), belonging to the genus Mycobacterium.
Dimensions: 0.5-0.8 µm x 2.0-3.0 µm
Colony characteristics: Smooth, dome-like and nonpigmented colonies on Löwenstein–Jensen medium at 35 °C (0.5–1 mm in diameter).
Physiology: Slow growth on Löwenstein–Jensen medium at 35 °C within 3–4 weeks, optimal growth at a range from 33 to 35 °C, but also growth at 30 and 37 °C, growth at neither 25 nor at 45 °C, susceptible to isoniazid, rifampicin and ethambutol, resistant to pyrazinamide and cycloserine
Differential characteristics: Differentiation from M. malmoense, (bearing a strong phenotypic resemblance to M. heidelbergense), by its wider range of susceptibility to antituberculous drugs, (including isoniazid), and by its inability to grow on Löwenstein–Jensen medium at 25 °C, differentiation of M. triplex from M. heidelbergense by its positive nitrate reduction test and by its characteristic HPLC profile (triple-mycolate pattern).
Pathogenesis occurs in cervical lymph nodes (lymphadenitis) in immunocompetent patients. Its biosafety level is not known. The type strain was first isolated from an immunocompetent paediatric patient with cervical lymphadenitis with recurrent fistula formation, in Heidelberg, Germany.[1] It is strain 2554/91 = ATCC 51253 = CIP 105424 = DSM 44471.
Mycobacterium heidelbergense is a Gram-positive, nonmotile, acid-fast coccobacillus. It is a species of the phylum Actinomycetota (Gram-positive bacteria with high guanine and cytosine content, one of the dominant phyla of all bacteria), belonging to the genus Mycobacterium.
Mycobacterium heidelbergense là một cầu trực khuẩn có tính chất Gram dương, không động, kháng axit. Nó là một loài của ngành Actinobacteria (Vi khuẩn Gram dương với hàm lượng cao cao guanine và cytosine, một trong những ngành lớn trong tất cả các vi khuẩn), thuộc chi Mycobacterium.
Kích thước: 0,5-0,8 µm x 2,0-3,0 µm Đặc điểm thuộc địa: Các khuẩn lạc mượt mà, mái vòm và không bị sắc màu trên môi trường Löwenstein-Jensen ở 35 °C (đường kính 0,5–1 mm). Sinh lý: Tăng trưởng chậm trên môi trường Löwenstein-Jensen ở 35 °C trong vòng 3–4 tuần, tăng trưởng tối ưu ở khoảng từ 33 đến 35 °C, nhưng cũng tăng trưởng ở 30 và 37 °C, tăng trưởng ở mức 25 và 45 °C, nhạy cảm với isoniazid, rifampicin và ethambutol, kháng với pyrazinamide và cycloserine Đặc điểm vi phân: Sự khác biệt với M. malmoense, (mang kiểu hình mạnh giống M. heidelbergense), bởi phạm vi nhạy cảm rộng hơn với thuốc kháng lao, (bao gồm isoniazid), và không có khả năng phát triển trên môi trường Löwenstein-Jensen ở 25 °C, sự khác biệt của M. triplex từ M. heidelbergense bằng xét nghiệm giảm nitrate dương tính và theo hồ sơ HPLC đặc trưng của nó (mẫu có ba màu). Bệnh sinh xảy ra ở các hạch bạch huyết cổ tử cung (viêm hạch bạch huyết) ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch. Mức độ an toàn sinh học của nó không được biết đến. Loại chủng này lần đầu tiên được phân lập từ một bệnh nhi suy giảm miễn dịch với viêm hạch cổ tử cung với sự hình thành rò tái phát, ở Heidelberg, Đức.[1] Chủng gây bệnh, 2554/91 = ATCC 51253 = CIP 105424 = DSM 44471.
Mycobacterium heidelbergense là một cầu trực khuẩn có tính chất Gram dương, không động, kháng axit. Nó là một loài của ngành Actinobacteria (Vi khuẩn Gram dương với hàm lượng cao cao guanine và cytosine, một trong những ngành lớn trong tất cả các vi khuẩn), thuộc chi Mycobacterium.