Hiekkatokot (Kraemeriidae) on ahvenkaloihin kuuluva kalaheimo. Heimon lajeja tavataan indopasifiselta merialueelta
Hiekkatokkojen heimoon kuuluu 8 lajia, jotka jaetaan kahteen sukuun. Kalat ovat kooltaan pieniä, korkeintaan 6 cm pitkiä. Ruumis on pitkulainen ja suomuton. Lajien selkä- ja peräevät ovat pirkät eivätkä yhteneväiset pyrstöevän kanssa. Hiekkatokkojen silmät ovat melko pienikokoiset, alaleuka työntyy yläleukaa kauemmas eteenpäin. Tyypillinen piirre on, että kieli on kärjestään kaksiosainen.[1][2]
Hiekkatokkolajeja tavataan indopasifisella merialueella Havaijille asti. Ne elävät tyypillisesti matalissa vesissä kaivautuneena hiekkapohjaan niin, että vain pää näkyy. Hiekkatokot ovat pääasiallisesti mereisiä lajeja, mutta toisinaan niitä tavataan myös makean ja murtoveden alueilta.[1][2]
Hiekkatokot (Kraemeriidae) on ahvenkaloihin kuuluva kalaheimo. Heimon lajeja tavataan indopasifiselta merialueelta
Kraemeriidae (Lansvissen) zijn een familie van straalvinnige vissen uit de orde van Baarsachtigen (Perciformes).[1]
Kraemeriidae (Lansvissen) zijn een familie van straalvinnige vissen uit de orde van Baarsachtigen (Perciformes).
Kraemeriidae[1] är en familj av fiskar. Kraemeriidae ingår i ordningen abborrartade fiskar (Perciformes).[1] Enligt Catalogue of Life omfattar familjen Kraemeriidae 9 arter[1].
Arterna förekommer i Indiska oceanen och Stilla havet samt i angränsande flodmynningar och floder. De har en långsträckt kropp och saknar fjäll. Flera familjemedlemmar gräver sig när i grunden och har bara huvudet utanför. Maximallängden är cirka 6 cm.[2]
Släkten enligt Catalogue of Life[1]:
Kraemeriidae är en familj av fiskar. Kraemeriidae ingår i ordningen abborrartade fiskar (Perciformes). Enligt Catalogue of Life omfattar familjen Kraemeriidae 9 arter.
Arterna förekommer i Indiska oceanen och Stilla havet samt i angränsande flodmynningar och floder. De har en långsträckt kropp och saknar fjäll. Flera familjemedlemmar gräver sig när i grunden och har bara huvudet utanför. Maximallängden är cirka 6 cm.
Släkten enligt Catalogue of Life:
Gobitrichinotus KraemeriaKraemeriidae là danh pháp khoa học của một họ nhỏ (khoảng 9 loài) cá nhỏ dạng cá bống, chủ yếu là cá biển, bản địa khu vực từ Ấn Độ Dương tới trung Thái Bình Dương. Chúng thường sống trong các vũng nước nông nhiều cát và được tìm thấy trong các rạn san hô, nhiều loài thường sống trong hang với đầu thò ra. Duy nhất một loài (Gobitrichinotus arnoulti) sinh sống trong vùng nước ngọt ở Madagascar. Trong mùa sinh sản cá đực có đốm gióng như mắt đơn ở phía sau vây lưng đầu tiên. Cơ thể thuôn dài và không vảy. Đầu lưỡi có 2 thùy. Hàm dưới thò ra với cằm phình to. Mắt nhỏ. Vây lưng và vây hậu môn không hợp lại với vây đuôi. Thông thường 1 vây lưng có 4-6 gai yếu, thường 13-18 tia vây mềm. Vây chậu thường tách biệt; 1 gai, 5 tia vây mềm. Tia khe mang 5. Chiều dài khoảng 3–4 cm, tối đa khoảng 6 cm.
Theo truyền thống, họ này xếp trong phân bộ Gobioidei của bộ Perciformes[2]. Tuy nhiên, khi phân bộ Cá bống được phục hồi thành bộ riêng thì họ này được chuyển sang để tạo thành một phần của bộ Gobiiformes[3].
Một số các kết quả nghiên cứu phát sinh chủng loài cho thấy Kraemeriidae cùng các họ như Microdesmidae, Ptereleotridae, Schindleriidae lồng sâu trong phân họ Gobiinae (bao gồm cả Benthophilinae) của họ Gobiidae nghĩa cũ. Do vậy chúng được hợp nhất với phân họ Gobiinae để tạo ra họ Gobiidae nghĩa mới[4].
Kraemeriidae là danh pháp khoa học của một họ nhỏ (khoảng 9 loài) cá nhỏ dạng cá bống, chủ yếu là cá biển, bản địa khu vực từ Ấn Độ Dương tới trung Thái Bình Dương. Chúng thường sống trong các vũng nước nông nhiều cát và được tìm thấy trong các rạn san hô, nhiều loài thường sống trong hang với đầu thò ra. Duy nhất một loài (Gobitrichinotus arnoulti) sinh sống trong vùng nước ngọt ở Madagascar. Trong mùa sinh sản cá đực có đốm gióng như mắt đơn ở phía sau vây lưng đầu tiên. Cơ thể thuôn dài và không vảy. Đầu lưỡi có 2 thùy. Hàm dưới thò ra với cằm phình to. Mắt nhỏ. Vây lưng và vây hậu môn không hợp lại với vây đuôi. Thông thường 1 vây lưng có 4-6 gai yếu, thường 13-18 tia vây mềm. Vây chậu thường tách biệt; 1 gai, 5 tia vây mềm. Tia khe mang 5. Chiều dài khoảng 3–4 cm, tối đa khoảng 6 cm.