Els Saccopharyngiformes són un ordre de peixos del superordre Elopomorpha.
Aquest ordre inclou peixos abissals similars a l'anguila. Totes les espècies tenen una boca desmesuradament gran comparada amb la resta del cos i un ventre distendible fins a unes dimensions tals que fa que es puguin empassar i digerir preses comparativament molt més grans.[1]
Els Saccopharyngiformes són un ordre de peixos del superordre Elopomorpha.
Ahmattiankeriaskalat (Saccopharyngiformes) on viuhkaeväisten kalojen lahko, johon kuuluu neljä heimoa ja 28 lajia.[2] Ne muistuttavat ulkoisesti ankeriaskaloja, mutta sisukalut ovat hyvin erilaiset. Niiltä puuttuu monia luita, esimerkiksi kylkiluut. Niillä ei ole myöskään parillisia eviä eikä uimarakkoa. Kita on suhteettoman suuri kalan kokoon verrattuna.
Useimmat ahmattiankeriskalat elävät merten syvyyksissä. Joillakin lajeilla on pyrstössään valoa säteilevä elin, jolla ne houkuttelevat saalista.[3]
Ahmattiankeriaat jaetaan neljään heimoon kahdessa alalahkossa:[4]
Ahmattiankeriaskalat (Saccopharyngiformes) on viuhkaeväisten kalojen lahko, johon kuuluu neljä heimoa ja 28 lajia. Ne muistuttavat ulkoisesti ankeriaskaloja, mutta sisukalut ovat hyvin erilaiset. Niiltä puuttuu monia luita, esimerkiksi kylkiluut. Niillä ei ole myöskään parillisia eviä eikä uimarakkoa. Kita on suhteettoman suuri kalan kokoon verrattuna.
Useimmat ahmattiankeriskalat elävät merten syvyyksissä. Joillakin lajeilla on pyrstössään valoa säteilevä elin, jolla ne houkuttelevat saalista.
De alen (Saccopharyngiformes) vormen een orde van straalvinnigen. Ze hebben op het eerste gezicht overeenkomsten met de palingachtigen (Anguilliformes), maar er zijn enkele interne verschillen. De meeste soorten in deze orde zijn diepzeevissen.
Bij de vissen ontbreken sommige botten, zoals de kieuwplaten en ribben en een zwemblaas. De kaken zijn vrij groot en sommige soorten kunnen vissen verschalken die groter zijn dan zijzelf.
De vis voedt zich met eenoogkreeftjes, vissen, garnalen en plankton. Hij opent zijn bek als een visnet en zwemt naar zijn prooi.
Er worden vier families onderscheiden[1]
De alen (Saccopharyngiformes) vormen een orde van straalvinnigen. Ze hebben op het eerste gezicht overeenkomsten met de palingachtigen (Anguilliformes), maar er zijn enkele interne verschillen. De meeste soorten in deze orde zijn diepzeevissen.
Gardzielcokształtne[2], sakkofaryngokształtne[3] (Saccopharyngiformes) – rząd drapieżnych, morskich ryb promieniopłetwych (Actinopterygii), o bardzo nietypowej budowie, blisko spokrewnionych z węgorzokształtnymi. Wyniki analiz morfologicznych i molekularnych sugerują zaliczenie gardzielcokształtnych w randze podrzędu Saccopharyngoidei do węgorzokształtnych[4][5][6].
Szeroko rozprzestrzeniona grupa ryb głębinowych spotykanych na głębokościach od 500 do 7000 m p.p.m.
W zapisie kopalnym znane są skamieniałości z kredy Libanu[3].
Ciało wydłużone, zwężające się ku ogonowi, zakończone długim biczem, o długości od kilku centymetrów (Monognathidae) do 2 metrów (Saccopharyngidae). Skóra bez łusek. Bardzo szeroka gardziel powstała w wyniku wydłużenia kości gnykowo-żuchwowych i kwadratowej. Brak płetw brzusznych, płetwa ogonowa zredukowana lub nie występuje. Wzdłuż płetwy grzbietowej występują narządy świetlne. Rozciągliwy żołądek. Wyraźna linia boczna. Brak pokryw skrzelowych, żeber i pęcherza pławnego. Larwa typu leptocephalus. Gardzielcokształtne żywią się rybami i dużymi skorupiakami.
Do gardzielcokształtnych są zaliczane rodziny[7][8]:
Gardzielcokształtne, sakkofaryngokształtne (Saccopharyngiformes) – rząd drapieżnych, morskich ryb promieniopłetwych (Actinopterygii), o bardzo nietypowej budowie, blisko spokrewnionych z węgorzokształtnymi. Wyniki analiz morfologicznych i molekularnych sugerują zaliczenie gardzielcokształtnych w randze podrzędu Saccopharyngoidei do węgorzokształtnych.
Pelikanålartade fiskar (Saccopharyngiformes) är en ordning djuphavslevande fiskar.
Мішкоротоподібні ззовні схожі на вугроподібних, з якими раніше їх об'єднювали, але мають декілька відмінностей у внутрішній будові тіла. У мішкоротоподібних відсутні деякі кістки, зокрема, симплектична кістка, ребра та зяброва кришка, а також у них немає луски, черевних плавців та плавального міхура. Спинний і анальний плавці довгі. Щелепи великі з дрібними зубами. Рот риба може відкривати досить широко, щоб з'їсти здобич, що за розміром перевищує саму рибу. Міомери V-подібні, а не W-подібні як в інших риб. Найменший представник мішкоротоподібних Monognathus herringi — 4,8 см завдовжки, а найбільший Saccopharynx ampullaceus — 161 см.
Глибоководні види, живуть на глибині понад 3000 м. Хижаки. Більшість видів відомі лише по одиничних екземплярах, тому погано вивчені. Мальки мішкоротоподібних схожі на лептоцефали вугрів.
До ряду відносять 4 родини з 28 видами:
Cá chình họng túi (danh pháp khoa học: Saccopharyngiformes) là các loài cá dạng cá chình sống ở độ sâu lớn, là một trong những nhóm cá kì dị nhất dưới lòng biển sâu. Phần lớn các loài là cá biển sâu thiếu sáng nên chúng ít khi được nhìn thấy, thường chỉ được biết đến từ một ít các mẫu vật. Một số loài đáng chú ý là cá chình bồ nông, cá chình đuôi cộc và cá chình họng túi. Nghiên cứu rộng khắp về nhóm cá này vẫn chưa thể tiến hành do chúng chỉ được quan sát gián tiếp, với một số loài chỉ được biết đến ở dạng ấu trùng[1]. Tất cả các họ (ngoại trừ các cá thể cực hiếm thấy của họ mới đề xuất Neoceymatidae chỉ được biết đến ở đông nam Đại Tây Dương) đều được tìm thấy trong các đại dương chính như Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương.
Saccopharyngiformes có quan hệ họ hàng gần với bộ Cá chình (Anguilliformes) và gần đây được coi là nhánh phái sinh trong phạm vi Anguilliformes, mặc dù các loài trong nhóm cá này có nhiều điểm khác biệt với phần còn lại của bộ Anguilliformes mở rộng. Đáng chú ý là chúng không có xương đối ngẫu, xương mang cá, xương sườn hay bong bóng. Giống như nhiều loài cá chình khác, chúng không có vảy và vây chậu. Các đoạn cơ của chúng hình chữ V chứ không phải hình chữ W ở tất cả các loài cá khác, và đường bên của chúng không có lỗ rỗng mà bị biến đổi thành các nhóm ống nhỏ (tiểu quản) nâng cao. Hàm của chúng rất lớn, với các răng nhỏ và một số loài đáng chú ý ở chỗ có thể ăn thịt các loại cá to lớn hơn chúng. Một số loài trong các họ Eurypharyngidae và Saccopharyngidae là phát quang sinh học.
Giống như các loài cá chình khác, Saccopharyngiformes có ấu trùng leptocephalus, tuy nhiên ấu trùng của chúng cũng có một lượng các đặc trưng bất thường, như cơ thể sâu đáng kể ở Cyematidae, hàm dưới dài ở Eurypharyngidae và các chỗ phồng lên được nhuộm màu độc nhất vô nhị ở cuối ruột ở Saccopharyngidae và Eurypharyngidae[2][3].
Có 4 họ (họ thứ năm đề xuất năm 2018) xếp theo từng phân bộ:
Phân tích phát sinh chủng loài gần đây cho thấy Saccopharyngiformes lồng sâu trong Anguilliformes.[4][5][6][7] Trong một vài phân loại gần đây nó được gộp vào trong Anguilliformes như là phân bộ Saccopharyngoidei.[8] Mối quan hệ có lẽ đúng của nó được đơn giản hóa như biểu đồ sau:[4]
Anguilliformes sensu lato
Các họ khác của Anguilliformes
Saccopharyngoidei
|pmc=
(trợ giúp). PMID 30044814 Kiểm tra giá trị |pmid=
(trợ giúp). doi:10.1371/journal.pone.0199982. Cá chình họng túi (danh pháp khoa học: Saccopharyngiformes) là các loài cá dạng cá chình sống ở độ sâu lớn, là một trong những nhóm cá kì dị nhất dưới lòng biển sâu. Phần lớn các loài là cá biển sâu thiếu sáng nên chúng ít khi được nhìn thấy, thường chỉ được biết đến từ một ít các mẫu vật. Một số loài đáng chú ý là cá chình bồ nông, cá chình đuôi cộc và cá chình họng túi. Nghiên cứu rộng khắp về nhóm cá này vẫn chưa thể tiến hành do chúng chỉ được quan sát gián tiếp, với một số loài chỉ được biết đến ở dạng ấu trùng. Tất cả các họ (ngoại trừ các cá thể cực hiếm thấy của họ mới đề xuất Neoceymatidae chỉ được biết đến ở đông nam Đại Tây Dương) đều được tìm thấy trong các đại dương chính như Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương.
Saccopharyngoidei
СинонимыМешкоротовидные[3] (лат. Saccopharyngoidei) — подотряд[1] лучепёрых рыб из отряда угреобразных[1], представители которого приспособились к жизни на больших глубинах океанов. Раньше эта группа выделялась в самостоятельный отряд Мешкоротообразные (Saccopharyngiformes), однако недавние исследования показали их близкое родство с угрями подотряда Anguilloidei[1], на основании чего их всех отнесли к угреобразным.
На фоне огромной пасти, тело этих животных выглядит чрезвычайно малым. Достигают общей длины от 4,8 см (Monognathus herringi)[4] до 161 см (Saccopharynx ampullaceus)[5], а по другим данным даже до около 2 м[1]. Эти рыбы не имеют чешуи, плавательного пузыря, рёбер, пилорических придатков, хвостового и брюшных плавников. Спинной и анальный плавники длинные. Многие кости черепа редуцированы, либо полностью исчезли. Мальки мешкоротовидных похожи на лептоцефалов угрей. Ископаемых представителей данного отряда пока не найдено.
В подотряд мешкоротовидных включают 4 семейства с 5 родами и 28 видами[1][6]:
До включения мешкоротовидных в отряд угреобразных семейство циемовых выделяли в монотипический подотряд циемовидных (Cyematoidei)[3].
Мешкоротовидные (лат. Saccopharyngoidei) — подотряд лучепёрых рыб из отряда угреобразных, представители которого приспособились к жизни на больших глубинах океанов. Раньше эта группа выделялась в самостоятельный отряд Мешкоротообразные (Saccopharyngiformes), однако недавние исследования показали их близкое родство с угрями подотряда Anguilloidei, на основании чего их всех отнесли к угреобразным.
囊鳃鳗目是一种条鳍鱼(辐鳍鱼纲),在一定程度上与真鳗较为相似,但是有很多内部结构上的差异。从已有的少量标本来看,大部分的囊鳃鳗目都是深海鱼类,比如伞口吞噬鳗。
囊鳃鳗目缺少部分骨骼,如续骨、鳃盖骨及肋骨。他们也没有魚鱗,腹鰭或魚鰾。口部一般较大,其中部分甚至可以吞噬下比自身更大的鱼类而令人印象深刻。它们的myomeres(肌肉segments)呈V字型而不是其他鱼类的W字型,并且它们的侧线不具备开孔,而是由一组管道代替。
在此目中有四个科:
吞噬鳗一般猎食鱼类,桡足类,小虾和浮游生物。在捕食时,它张开大口像一个袋子一样过滤游经的食物。
囊鳃鳗目是一种条鳍鱼(辐鳍鱼纲),在一定程度上与真鳗较为相似,但是有很多内部结构上的差异。从已有的少量标本来看,大部分的囊鳃鳗目都是深海鱼类,比如伞口吞噬鳗。
囊鳃鳗目缺少部分骨骼,如续骨、鳃盖骨及肋骨。他们也没有魚鱗,腹鰭或魚鰾。口部一般较大,其中部分甚至可以吞噬下比自身更大的鱼类而令人印象深刻。它们的myomeres(肌肉segments)呈V字型而不是其他鱼类的W字型,并且它们的侧线不具备开孔,而是由一组管道代替。
フウセンウナギ目(学名:Saccopharyngiformes)は、硬骨魚類の分類群の一つ。2亜目4科で構成され、フウセンウナギ・フクロウナギなど中層遊泳性の深海魚のみ5属28種が記載される[1]。
フウセンウナギ目はウナギのように細長い体と、極端に大きな顎の骨が特徴の、著しく特異な形態をもつ魚類の一群である[2]。所属する28種余りのすべてが中深層から漸深層(水深200 - 3,000m)にかけての深海に生息する深海魚で、海底から離れた中層を漂泳して生活する。
カライワシ上目の魚類に共通する特徴として、レプトケファルス(葉形仔魚)と呼ばれる独特な仔魚期を経て成長する。近縁のウナギ目と同様、産卵は生涯に一度きりで、親魚は繁殖直後に死亡すると考えられている[1]。
フウセンウナギ目は形態学的に見て極めて特異なグループであり、接続骨・鰓蓋骨・鰓条骨・肋骨を欠くとともに、鱗・幽門垂および浮き袋をもたない[1]。えら(鰓)の開口部は腹側にある[1]。背鰭と臀鰭の基底は長いが、腹鰭を欠き、尾鰭も痕跡的かあるいは失っている[1]。顎骨と舌顎骨は極めて細長く、ただ一つの関節丘を介して神経頭蓋と接続する[1]。本目魚類のレプトケファルスは体高が高く、筋節はV字型となっている[1]。
フウセンウナギ目はヤバネウナギ亜目・フウセンウナギ亜目の2亜目の下、4科5属28種で構成される[1]。本目はかつてウナギ目に所属する一亜目として扱われていたが、Nelson(1994)の体系以降、独立の目として分類されるようになっている[3]。一方で、1990年代以降に行われた分子生物学的解析の結果に基づき、本目全体を再びウナギ目の内部に置く見解もある[4]。
ヤバネウナギ亜目 Cyematoidei は1科2属2種を含む。以前は「セムシウナギ」と呼ばれていたグループだが、差別的表現を含むとして、日本魚類学会により2007年に亜目名および科名が変更された[5]。
ヤバネウナギ科 Cyematidae は2属2種からなる。体は比較的短く、最大でも15cm程度。眼は小さく痕跡的である。退化傾向はフウセンウナギ亜目ほど顕著ではない[1]。
フウセンウナギ亜目 Saccopharyngoidei は3科3属で構成され、26種を含む。方形骨が非常に長く伸びる[1]。咽頭の伸縮性が極めて高く、大型の獲物を飲み込むことが可能となっている[1]。本亜目の魚類は脊椎動物全体から見ても特異な解剖学的構造をしており、研究初期には硬骨魚類に含めることの妥当性に疑義が呈されたこともある[1]。
フウセンウナギ科 Saccopharyngidae はフウセンウナギ属のみ、約10種が記載される。大きな口には鋭い歯が備わり、胸鰭はよく発達する[1]。鋤骨と副蝶形骨を欠き、椎骨は150-300個[1]。
フクロウナギ科 Eurypharyngidae はフクロウナギ Eurypharynx pelecanoides のみ、1属1種。フウセンウナギ類とは鰓の開口位置、背鰭の起始部が異なることで区別が可能である。歯は貧弱で、小型の獲物をかき集めているとみられる。
タンガクウナギ科 Monognathidae は1属15種からなる。名前の通り単顎であり、上顎をもたない[1]。胸鰭を欠き、背鰭と臀鰭を支持する骨格が存在しない[1]。知られている70点の標本のほとんどは、水深2,000m以深から採取されたものである[1]。