Chaunacops coloratus Chaunacops generoko animalia da. Arrainen barruko Chaunacidae familian sailkatzen da.
Chaunacops coloratus Chaunacops generoko animalia da. Arrainen barruko Chaunacidae familian sailkatzen da.
Chaunacops coloratus est une espèce de poissons abyssaux de la famille des Chaunacidae.
L'espèce Chaunacops coloratus a été initialement décrite en 1899 par Samuel Garman sous le protonyme de Chaunax coloratus.
Alors que la majorité des sources (dont FishBase et le WoRMS) la range dans le genre Chaunacops, l’ITIS la classe sous le genre Bathychaunax sous le taxon Bathychaunax coloratus.
L’espèce vit dans la zone bathyale de l’océan Indien ainsi que d’une partie de l’océan Pacifique. Elle se rencontre entre 1 250 et 2 000 m de profondeur[2].
Chaunacops coloratus mesure jusqu'à 190 mm de longueur totale[2].
Chaunacops coloratus est une espèce de poissons abyssaux de la famille des Chaunacidae.
Chaunacops coloratus is een straalvinnige vissensoort uit de familie van chaunaciden (Chaunacidae).[1] De wetenschappelijke naam van de soort is voor het eerst geldig gepubliceerd in 1899 door Garman.
Bronnen, noten en/of referentiesChaunacops coloratus[2] là một loài cá thuộc họ Chaunacidae[3][4]. Loài cá này sinh sống ở biển sâu dưới độ sâu hơn 1000 mét trong Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương và Đại Tây Dương. Con cá trưởng thành có da màu hồng, còn những con nhỏ hơn có da màu xanh dương. Chiều dài thân tối đa của chúng vào khoảng 20 cm, ngắn nhất là 7 cm. Loài cá này thường nằm ở một chỗ chờ con mồi tới gần. Sau khi phát hiện mồi, nó từ từ tiến tới gần bằng cách đẩy những vây ngực và vây bụng xuống đáy. Ngoài ra chúng còn có thể bơi như những loài cá khác bằng cách quẫy vây đuôi.
Chaunacops coloratus là một loài cá thuộc họ Chaunacidae. Loài cá này sinh sống ở biển sâu dưới độ sâu hơn 1000 mét trong Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương và Đại Tây Dương. Con cá trưởng thành có da màu hồng, còn những con nhỏ hơn có da màu xanh dương. Chiều dài thân tối đa của chúng vào khoảng 20 cm, ngắn nhất là 7 cm. Loài cá này thường nằm ở một chỗ chờ con mồi tới gần. Sau khi phát hiện mồi, nó từ từ tiến tới gần bằng cách đẩy những vây ngực và vây bụng xuống đáy. Ngoài ra chúng còn có thể bơi như những loài cá khác bằng cách quẫy vây đuôi.