Betta persephone is a species of labyrinth fish endemic to Malaysia where it is only known from Johor.[2] This betta's specific epithet derives from the Greek goddess Persephone, queen of the Underworld, a reference to the largely blackish colouration of this fish.[3]
Betta persephone is a small species with a maximum length of 2.6 centimetres (1.0 in) SL. The males are largely blue-black in colour, with the females exhibiting browner tones.[2][3]
Betta persephone has a limited distribution in Malaysia, the type locality being Ayer Hitam in Johor. This Betta species inhabits soft, acidic waters at temperatures of 23‒28 °C (73‒82 °F). The typical habitat is closed-canopy forest where it is dark on the forest floor and there is thick vegetation on the banks of the blackwater streams and peat swamps where this fish lives among submerged tree roots. Sometimes it may be forced to live temporarily among the wet leaf litter in periods when the peaty pools dry up.[4]
In its natural habitat, Betta persephone feeds on insects and other small invertebrates. It is a bubble nester, creating a ball of bubbles among submerged vegetation in which to lay its eggs.[4]
Betta persephone is listed as "Endangered" on the IUCN Red List, as its natural range is restricted to a very small and diminishing area of swampy water bodies in tropical forests.[1] Its habitat is being diminished by the clearing of the forests to make way for oil palm cultivation.[4] While a delicate species not easily kept in aquaria, it has been bred successfully in captivity.[3]
Betta persephone is a species of labyrinth fish endemic to Malaysia where it is only known from Johor. This betta's specific epithet derives from the Greek goddess Persephone, queen of the Underworld, a reference to the largely blackish colouration of this fish.
Betta persephone es una especie de pez de la familia gouramis del orden Perciformes . El primer ejemplar fue descrito en 1986 en el Estado Johor, Malasia, B. persephone es una especie muy rara.
este betta habita en las aguas ácidas de 23‒28 °C. Los machos tienen una gran mancha oscura en su cuerpo.[1] [2]
B. persephone está en peligro crítico, según la lista roja en 1996.[3][2]
Betta persephone es una especie de pez de la familia gouramis del orden Perciformes . El primer ejemplar fue descrito en 1986 en el Estado Johor, Malasia, B. persephone es una especie muy rara.
este betta habita en las aguas ácidas de 23‒28 °C. Los machos tienen una gran mancha oscura en su cuerpo.
B. persephone está en peligro crítico, según la lista roja en 1996.
Betta persephone Betta generoko animalia da. Arrainen barruko Osphronemidae familian sailkatzen da.
Betta persephone Betta generoko animalia da. Arrainen barruko Osphronemidae familian sailkatzen da.
Betta persephone is een straalvinnige vissensoort uit de familie van de echte goerami's (Osphronemidae).[1] De wetenschappelijke naam van de soort is voor het eerst geldig gepubliceerd in 1986 door Schaller.
Bronnen, noten en/of referentiesBetta persephone là một loài cá nước ngọt trong họ Osphronemidae của bộ Perciformes. Đầu tiên được mô tả vào năm 1986 từ một quần thể gần Ayer Hitam trong Johor Country, Malaysia, B. Persephone là một loài quý hiếm và khó nắm bắt.
Loài Betta sinh sống trong nước mềm, có tính axit có nhiệt độ 23-28 °C (73-82 °F). Nó đạt tổng chiều dài 3,2 cm (1 ¼ inch). Con đực chủ yếu là màu xanh-đen, với những con cái trương bày một màu nâu hơn.[1] [2]
B. persephone đã được liệt kê như là Cực kỳ nguy cấp trên Sách đỏ IUCN từ năm 1996, khi nó được giới hạn trong một khu vực rất nhỏ và đang giảm bớt.[3]
Betta persephone là một loài cá nước ngọt trong họ Osphronemidae của bộ Perciformes. Đầu tiên được mô tả vào năm 1986 từ một quần thể gần Ayer Hitam trong Johor Country, Malaysia, B. Persephone là một loài quý hiếm và khó nắm bắt.
Loài Betta sinh sống trong nước mềm, có tính axit có nhiệt độ 23-28 °C (73-82 °F). Nó đạt tổng chiều dài 3,2 cm (1 ¼ inch). Con đực chủ yếu là màu xanh-đen, với những con cái trương bày một màu nâu hơn.
B. persephone đã được liệt kê như là Cực kỳ nguy cấp trên Sách đỏ IUCN từ năm 1996, khi nó được giới hạn trong một khu vực rất nhỏ và đang giảm bớt.