Tor tambroides és una espècie de peix de la família dels ciprínids i de l'ordre dels cipriniformes.
Els mascles poden assolir els 100 cm de longitud total.[3][4]
Es troba a Malàisia, Birmània, Sumatra, Java, Borneo (incloent-hi els rius Chao Phraya, Mekong, Salween i Maeklong).[5][6][7][3]
Tor tambroides, known as empurau in Malay, is a species of mahseer native to Southeast Asia.
It has been suggested that the species represents a junior synonym of Tor tambra.[2][3] T. tambra, T. tambroides and T. douronensis may be synonymous.[4]
These fish have been found throughout Southeast Asia, ranging from Thailand in the Chao Phraya and Mekong River basins to the Greater Sunda Islands. The species has been reported in Burma.[5] The type locality of Tor tambroides is the Indonesian island of Sumatra.
The species is omnivorous, sometimes eating toxic fruits when the streams it inhabits flood the forest; this may make them temporarily inedible. During the rainy season, juveniles migrate downstream. After 2 months, matured adults travel back upstream to spawn at the headwaters in the dry season.[5]
While the species is not currently assigned a conservation status by the IUCN due to lack of data, overfishing is assumed to threaten the wild population.[1] The empurau, as the species is known in Malaysia, is reportedly the most expensive edible fish in the country[6] and has been known to fetch up to RM1800 per kilogram of the fish.[7]
Empurau can be grown in captivity. The fish require moving, well-oxygenated water. They should be fed on various fruits and seeds to simulate their natural diet.[8] Artificial hormones may be necessary to induce reproduction.[9]
Tor tambroides, known as empurau in Malay, is a species of mahseer native to Southeast Asia.
Tor tambroides es una especie de peces de la familia Cyprinidae en el orden de los Cypriniformes.
Los machos pueden llegar alcanzar los 100 cm de longitud total.[1][2]
Es un pez de agua dulce.
Se encuentra en Malasia, Birmania, Sumatra, Java, Borneo (incluyendo los ríos Chao Phraya, Mekong, Salween y Maeklong ).
Tor tambroides es una especie de peces de la familia Cyprinidae en el orden de los Cypriniformes.
Tor tambroides Tor generoko animalia da. Arrainen barruko Actinopterygii klasean sailkatzen da, Cyprinidae familian.
Tor tambroides Tor generoko animalia da. Arrainen barruko Actinopterygii klasean sailkatzen da, Cyprinidae familian.
Garing[3] (Tor tambroides) adalah sejenis ikan air tawar anggota suku Cyprinidae. Ikan yang digemari orang karena dagingnya yang enak ini menyebar luas di Asia Tenggara. Beberapa nama lokal ikan ini, di antaranya, gariang (Sumbar); semah, semah selubai (Jambi); tambra, hampal (Jabar);[4] dan sapan (Kalteng)[5]
Ikan karper berukuran sedang hingga besar, panjang standar (SL, standard length) mencapai 700 mm. Profil badannya memanjang, memipih tegak. Tinggi tubuh 3 kalinya atau lebih sebanding dengan panjang standar; sementara panjang kepalanya 3,6-3,8 kalinya sebanding dengan panjang standar. Bibirnya lebar, tebal, menggembung, menerus; bibir atas dengan semacam pelebaran di bagian depan; bibir bawah dengan lobus (bidang) tengah yang memanjang menutupi dagu, yang mencapai garis maya antara sudut-sudut mulut. Dua pasang sungut terdapat di moncong dan di sudut mulut di rahang atas, yang akhir ini sedikit banyak lebih panjang daripada yang pertama, dan sedikit lebih panjang pula daripada diameter mata.[6]
Awal sirip dorsal (punggung) di antarai oleh 8-9 sisik dari belakang kepala, kira-kira sejajar dengan sisik ke-7 pada gurat sisi, sedikit lebih muka dari awal sirip ventral (perut). Sirip dorsal dengan III jari-jari keras (duri) dan 9-10 jari-jari lunak, duri ke-3 besar dan keras, tepi atas sirip mencekung; sirip anal (dubur) III, 5; sirip pektoral (dada) I, 15-16; dan sirip ventral II, 8. Sirip anal bentuk terpangkas, ujungnya tidak mencapai sirip ekor manakala direbahkan. Sirip ekor bercabang dua dalam, ujungnya runcing, yang sebelah bawah lebih panjang, sama atau lebih panjang dari kepala. Sisik-sisik dengan gurat sisi 23-24.[6]
Sebelah atas badan berwarna zaitun, sebelah bawahnya berwarna perak; secara keseluruhan tampak hijau-jingga. Sirip-sirip berwarna bening kekuningan atau agak jambon, jarang agak hijau zaitun; sering berbintik-bintik gelap.[4]
Ikan garing menyebar luas di Asia Tenggara, di antaranya tercatat dari Burma, Laos, Thailand, Sumatra, Jawa, dan Kalimantan.[7] Spesimen contoh dikoleksi dari Pulau Sumatra (Padang, Solok, Danau Singkarak, Danau Maninjau, Payakumbuh, Sijunjung, Bengkulu, Lahat, Sungai Langkat); Jawa (Ciampea, Bogor, Cipanas, Ngantang, Banyu Biru di Pasuruan); Kalimantan (Sungai Kapuas, Sungai Bo, Sungai Mahakam; Sarawak).[6]
Garing merupakan ikan konsumsi bernilai tinggi di daerah sebarannya. Ikan ini dijual dalam keadaan segar, atau diolah menjadi ikan asap.
Garing (Tor tambroides) adalah sejenis ikan air tawar anggota suku Cyprinidae. Ikan yang digemari orang karena dagingnya yang enak ini menyebar luas di Asia Tenggara. Beberapa nama lokal ikan ini, di antaranya, gariang (Sumbar); semah, semah selubai (Jambi); tambra, hampal (Jabar); dan sapan (Kalteng)
Tor tambroides is een straalvinnige vissensoort uit de familie van de eigenlijke karpers (Cyprinidae).[1] De wetenschappelijke naam van de soort is voor het eerst geldig gepubliceerd in 1854 door Bleeker.
Bronnen, noten en/of referentiesCá Empurau (Danh pháp khoa học: Tor tambroides) là một loài cá Mahseer trong họ cá chép, chúng là loài cá bản địa ở vùng Đông Nam Á. Trong đó, chúng là đặc sản của Mã Lai, là nguyên liệu để chế biến thành các món ăn đắt tiền.
Chúng là loài cá bản địa ở Sarawak thuộc Mã Lai, Cá Empurau có thể được phát hiện ở thượng nguồn của các con sông chính như Rajang, Baram, Limbang và Batang Ai. Cá empurau là cá đắt nhất ổ Sarawak, nó được đánh giá cao vì thịt ngọt mềm. Chúng lớn đến 1,5 hay 2 ký. Một con 2 ký có thể bán được 1.000 RM (Ringgit Malaysia). Những con cá empurau có trọng lượng từ 10 đến 17 ký. Đa số cá mua đều nặng hơn 10 ký. Con lớn nhất từng mua nặng 23 ký. Tuy nhiên, ở trọng lượng đó, thịt cá vẫn mềm và ngọt.
Thường nó sống ở các dòng suối có đáy đá, nước trong, chảy mạnh và ăn các bộ phận cây như lá, trái và hoa, những thành phần này được nghĩ là cung cấp mùi vị thơm ngon cho nó. Loài cá này thích nước lạnh, sạch và với lượng ô xy hòa tan đầy đủ. Empurau ăn chủ yếu là trái cây và cây cỏ, Nó ăn trái cây dại như engkabang và ensurai mọc bên bờ sông. Nó cũng ăn tảo. Loại thực phẩm nó ăn cũng như môi trường sống xung quanh có lẽ tạo nên hương vị của nó, sử dụng cá tự nhiên từ Kapit, thành phố bên dòng sông Rajang thuộc vùng nội địa Sarawak.
Đây là con cá khó kiếm. Hiện giờ khó bắt vì số lượng của nó trong tự nhiên đã bị tàn phá nặng nề. Khoảng 20 hay 30 năm trước, người ta có thể dễ dàng bắt chúng ở Kapit hoặc ở vùng nội địa. Nhưng hiện giờ chúng rất hiếm, điều này có thể là do sự mất cân bằng về môi trường sống của nó do các hoạt động phát triển
Với giá 1.000 RM (tương đương 327 USD) một bữa ăn một ký, cách nấu nướng này dường như mang lại sự kết hợp hoàn hảo nhất cho mùi vị của cá. Phải trả ít nhất 1.000 Ringgit Malaysia cho món cá hấp hay cá nấu cà ri. Khi con cá nói tới là empurau, không có giá nào là quá cao, với nhu cầu cao, cá empurau có thể bán được 400 RM đến 450 RM một ký, trong khi ở các nhà hàng nó được bán với giá ngất ngưởng lên tới 1.000 RM hoặc hơn.
Khi người ta bắt đầu nuôi empurau vào năm 2006 trong các ao thuộc khuôn viên nhà ở Kuching. Ban đầu nuôi empurau như một thú vui họ phải thương mại hóa nó vì gia đình không thể ăn hết. Bán cá sống làm cá cảnh hoặc thú cưng cũng như cá đông lạnh để ăn. Hiện nay Four Points là khách sạn duy nhất ở Sarawak thường xuyên phục vụ món cá empurau cho khách hàng quen. Kể từ khi phục vụ món cá empurau, nó đã trở thành món ăn rất nổi tiếng.
Cá empura tại Four Points được định giá 100 ringgit cho 100 gam cho cả ba kiểu nấu nướng và gọi ít nhất là một ký, đủ để phục vụ mười khách. Để nếm món cá độc đáo này, khách hàng được khuyên là nên đặt hàng trước một ngày. Khách hàng có thể yêu cầu các phần khác nhau của cá, ví dụ đầu cá hoặc đuôi cá.
Cá empurau là một trong những món đặc sản với mùi vị độc nhất vô nhị ở Mã Lai, người Hoa gọi cá này là “Wang Pu Liao”, có nghĩa là không thể nào quên vì một khi đã nếm thử nó, bạn sẽ không bao giờ quên nó, Cách nấu thông thường nhất của nó là hấp, thường hấp cá với jintan manis và loại rau địa phương gọi là daun bungkang, rất thích hợp với loài cá này. Không cần cho nhiều nước sốt hay nước thịt vì muốn giữ mùi vị đặc trưng của cá.
Empurau được phục vụ theo 3 kiểu – Teo Chew, hấp hoặc cà ri. Kiểu Teo chew sử dụng một loại nước hầm đặc biệt gọi là shang tang, một loại nước thịt trong được ướp gia vị và hấp với gừng cắt sợi, mận ướp, rau ướp muối, nấm cắt mỏng và cà chua.Cách thứ hai, cá được hấp trong xì dầu siêu nhẹ và một ít dầu mè, hành lá và rau mùi bên trên. Với kiểu nấu cà ri, empurau được hấp sơ với đậu đông, sau đó thêm cà ri thơm lên trên để không át hương vị cá. Cà ri là món nổi tiếng nhất trong ba món phục vụ tại nhà hàng. Cà ri mang lại sự kết hợp tốt hơn cho mùi vị của cá. Cà ri là sự kết hợp tốt nhất với cá empurau. Món thích hơn là Cà ri empurau.
Cá Empurau (Danh pháp khoa học: Tor tambroides) là một loài cá Mahseer trong họ cá chép, chúng là loài cá bản địa ở vùng Đông Nam Á. Trong đó, chúng là đặc sản của Mã Lai, là nguyên liệu để chế biến thành các món ăn đắt tiền.
似野結魚(學名:Tor tambroides),又名馬來亞結魚,是一個原生於東南亞的鯉科結魚屬(mahseer(英语:mahseer))的物种。在台灣及星馬等地俗稱「忘不了」[2],是一種貴價食材[3]。
本物種廣泛見於东南亚,其分佈範圍(英语:range (biology))從泰国的昭拍耶河及湄公河河谷到印尼大巽他群岛。有報告指在缅甸亦見本物種的踪影[4]。
本物種是一種雜食動物,一般棲息於森林中的小溪流。當這些小溪流泛濫時,有時會將森林裡的有毒果實沖到溪流,這些果實亦為本物種所食用,使這期間的魚肉不適合食用。 幼魚會在雨季遷移向下游;兩個月後,成長了的成魚會在旱季返回上游,在上游產卵[4]。
儘管本物種現時在國際自然保護聯盟由於數據不足而未有保育狀態,但過度漁獵相信已對本物種的野生數目有影響[1]。 「忘不了」在馬來西亞國內是最昂貴的食用魚[5],已知最昂貴的可售至1800馬來西亞令吉1800每千克[6],而賣往新加坡的話,售價更會高得多[2]。所以現時已有養魚場嘗試養殖「忘不了」,期望可降低本物種的售價[2]。