Coelognathus radiatus is a large and relatively slender snake that has a wide distribution in southern and Southeast Asia.. The narrow head is slightly set off from the neck. The snout is slightly rounded and approximately twice the length of the eye diameter. The tail is relatively shorter and slender. The ventral keels are fairly well developed. The cross-section of the body is higher than wide. The eyes are relatively large and have a golden-yellow iris. The tongue is brownish-violet. The head is copper or dull orange; a transverse black stripe runs across the head, with black streaks leading to the eyes and two running backwards. Two black stripes are present below the eyes. Three narrow black stripes radiate from the eyes, one directly below the eye, another obliquely to the angle of the mouth, and a third fusing with the narrow collar band on the nape. The body is yellowish-brown, anteriorly adorned with longitudinal black stripes, usually three on each side, the median one not connected to the black collar.
Posteriorly, the stripes disappear. The belly is pale yellow, mottled with grey. The skin is checkered black, blue-gray and bright yellow anteriorly, visible when the snake inflates itself when displaying aggression. Total body length of a specimen collected from the Western Ghats was approximately 2.15m.
Scutellation: Coelognathus radiatus have two postoculars, 2+2 temporals; 1 preocular, 9 supralabials (with 4th, 5th and 6th in contact with the eye; among which the 6th supralabial shield is largest and is arched around and behind the eye); 10 infralabials; 19 dorsals (mid-body), weakly keeled on the back and smooth on the sides; 250 ventral, 106 subcaudals, anal plate undivided.
This species has been recorded from gardens, crop fields adjacent to forest, open areas, and waterlogged areas. It is active both night and day. When threatened, these snakes will often flatten their necks vertically, throwing themselves into an S-shaped loop, opening their mouths and remaining alert, ready to defend themselves vigorously against attack. The black lateral bars that are exposed by this behavior may act as a warning to enemies.
(Maqsood et al. 2010)
Vogel and Han-Yuen (2010) described several incidents of death-feigning (or thanatosis) by Coelognathus radiatus.
Coelognathus radiatus, commonly known as the radiated ratsnake, copperhead rat snake, or copper-headed trinket snake, is a nonvenomous[2][3] species of colubrid snake.
These snakes are usually defensive in nature which makes it hard to catch or control them.[4] [5]
Type locality: Java[7]
Coelognathus radiatus, commonly known as the radiated ratsnake, copperhead rat snake, or copper-headed trinket snake, is a nonvenomous species of colubrid snake.
Elaphe radiata Elaphe generoko animalia da. Narrastien barruko Colubridae familian sailkatuta dago.
Elaphe radiata Elaphe generoko animalia da. Narrastien barruko Colubridae familian sailkatuta dago.
Coelognathus radiatus est une espèce de serpents de la famille des Colubridae[1].
Cette espèce se rencontre en :
Coelognathus radiatus est un serpent ratier diurne.
Il mesure de 1,8 à 2 m.
Il peut parfois être impressionnant et sembler menaçant mais il n'est pas dangereux pour l'homme : il n'est pas venimeux[2] !
Coelognathus radiatus est une espèce de serpents de la famille des Colubridae.
Ular sapi atau yang juga dikenal dengan sebutan ular tikus kepala tembaga, adalah spesies ular tikus yang tersebar di daerah tropis India hingga Nusantara.[2]
Panjang tubuh ular sapi mencapai 2.3 meter. Penampang tubuh ular ini berbentuk oval dengan ekor yang agak pendek. Tubuh bagian atas berwarna kuning kecokelatan, kuning tua keabu-abuan, atau kelabu kecokelatan, dengan dua bercak garis berwarna hitam yang membentang di sisi badan, dari leher hingga ekor. Pada punggungnya juga terdapat bercak-bercak kecil berwarna keputihan. Kepalanya berwarna cokelat muda atau kuning tua keabu-abuan. Bagian bawah tubuh berwarna cokelat pucat atau kuning pucat.[3]
Ular ini tersebar luas mulai dari India bagian timur, Bangladesh, Myanmar, Laos, Tiongkok bagian tenggara (Fujian, Yunnan, Guangxi, Guangdong, dan Hong Kong), Vietnam, Kamboja, Thailand, Malaysia (Semenanjung, Serawak, dan Sabah), dan Indonesia (Sumatera, Bangka-Belitung, Jawa, dan Kalimantan).[4]
Habitat ular sapi terdiri dari hutan hujan dataran rendah, hutan terbuka, pinggiran hutan, perkebunan, persawahan, serta pinggiran pemukiman penduduk.[3]
Ular ini adalah salah satu jenis ular tikus yang sering hidup berdampingan dengan manusia. Walaupun begitu, ular ini sangat garang dan mudah marah ketika diganggu. Apabila ular ini diancam atau diganggu, ular ini akan memipihkan lehernya lalu melengkungkannya membentuk huruf "S", membuka mulutnya dan mengayun-ayunkan kepalanya. Ular ini juga tidak segan-segan untuk menggigit pengganggunya. Walaupun tidak berbisa, ular ini memiliki gigi-gigi yang tajam dan dapat merobek kulit.[3]
Seperti halnya spesies ular tikus yang lain, ular ini menyukai tikus sebagai makanannya, terutama tikus sawah dan tikus liar. Selain tikus, ular ini juga memangsa kadal dan kodok. Karena ular ini tidak berbisa, maka ular ini mebunuh mangsanya dengan cara membelitnya kuat-kuat sampai mangsanya kehabisan nafas dan mati, lalu menelannya secara utuh.[3]
Ular sapi berkembangbiak dengan bertelur (ovipar). Jumlah telur yang dihasilkan sebanyak 5 sampai 15 butir.[3]
Ular sapi atau yang juga dikenal dengan sebutan ular tikus kepala tembaga, adalah spesies ular tikus yang tersebar di daerah tropis India hingga Nusantara.
Ular Rusuk Kerbau (Coelognathus radiata) ialah sejenis ular.
Elaphe radiata[8] este o specie de șerpi din genul Elaphe, familia Colubridae, descrisă de Heinrich Boie în anul 1827.[9][10] Conform Catalogue of Life specia Elaphe radiata nu are subspecii cunoscute.[9]
|access-date=
(ajutor)Mentenanță CS1: Nume multiple: lista autorilor (link) Elaphe radiata este o specie de șerpi din genul Elaphe, familia Colubridae, descrisă de Heinrich Boie în anul 1827. Conform Catalogue of Life specia Elaphe radiata nu are subspecii cunoscute.
Rắn sọc dưa hay còn được gọi là rắn rồng, rắn hổ ngựa (danh pháp khoa học: Coelognathus radiata) là một loài rắn trong họ Rắn nước. Loài này được Boie mô tả khoa học đầu tiên năm 1827.[2]
Coelognathus radiata (Schlegel, 1837), Coluber radiata Schlegel, 1837. Họ: Rắn nước Colubridae, Bộ: Có vảy Squamata
Đặc điểm nhận dạng: Rắn lành, cỡ lớn trong họ Rắn nước, dài tới 2m, Đầu tương đối nhỏ thuôn dài, màu nâu xám, dài tới 2m, Đầu tương đối nhỏ thuôn dài, màu nâu xám phân biệt rõ với cổ. Lưng có màu nâu xám, có bốn đường màu đen chạy từ gáy xuống tới quá nửa thân, hai đường giữa to chạy dài liên tục, hai đường bên cạnh nhỏ hơn và đứt đoạn. Có một đường chạy ngang qua gáy. Từ mắt có ba đường đen nhỏ, hai đường chạy xiên xuống môi trên còn một đường qua thái dương nối với vòng đen ở gáy.
Sinh học - Sinh thái: Loài rắn không độc sống trên cạn, song rất dữ, dễ bị kích thích, thường gặp ở đồng bằng và trung du, thường ẩn trong các hang chuột đã bỏ không, leo trèo giỏi trên các bờ rào, bụi cây um tùm, đôi khi trên mái nhà tranh. Khi gặp nguy hiểm có tập tính tự vệ đặc biệt. Dựng đứng một phần ba thân về phía trước lên khỏi mặt đất. Phần thân sau không cuộn tròn mà làm thành hình chữ S trên mặt đất. Cổ phình to theo chiều trước sau làm da cổ căng rộng để lộ rõ màu vàng và đen ở da giữa các vảy cổ. Miệng há rộng, hung hăng, doạ nạt, dữ tợn như tập tính của rắn ráo hoặc rắn hổ trâu khi chuẩn bị cắn vào kẻ thù. Bắt mồi cả vào ban ngày và ban đêm. Có tập tính săn đuổi mồi. Mồi chủ yếu là chuột, ngoài ra có cả thằn lằn và ếch nhái, đôi khi ăn cả cá và chim non. Đẻ trứng từ tháng 5 - 7, khoảng từ 5 - 12 trứng trong bụi cây hoặc trên lá khô và có tập tính canh trứng. Ở miền Bắc Việt Nam, rắn sọc dưa có tập tính trú đông trong hang chuột bỏ trống từ cuối tháng 11 đến khoảng giữa tháng 3.
Phân bố: Việt Nam, Ấn Độ, Bangladesh, Trung Quốc, Myanmar, Lào, Thái Lan, Campuchia, Malaysia, Singapore, Indonesia.
Giá trị: Có giá trị bảo vệ thực vật (diệt chuột), thương phẩm (da thuộc dài, rộng, đẹp), thực phẩm đặc sản và dược liệu: ngâm chung cùng với rắn ráo trâu vào rượu ngâm bộ ba (cạp nong, hổ mang, rắn ráo) (rượu Tam xà) thành rượu ngâm bộ năm rắn (rượu Ngũ xà) cổ truyền chữa tê thấp và đau nhức khớp xương.
Rắn sọc dưa hay còn được gọi là rắn rồng, rắn hổ ngựa (danh pháp khoa học: Coelognathus radiata) là một loài rắn trong họ Rắn nước. Loài này được Boie mô tả khoa học đầu tiên năm 1827.
Coelognathus radiata (Schlegel, 1837), Coluber radiata Schlegel, 1837. Họ: Rắn nước Colubridae, Bộ: Có vảy Squamata
Đặc điểm nhận dạng: Rắn lành, cỡ lớn trong họ Rắn nước, dài tới 2m, Đầu tương đối nhỏ thuôn dài, màu nâu xám, dài tới 2m, Đầu tương đối nhỏ thuôn dài, màu nâu xám phân biệt rõ với cổ. Lưng có màu nâu xám, có bốn đường màu đen chạy từ gáy xuống tới quá nửa thân, hai đường giữa to chạy dài liên tục, hai đường bên cạnh nhỏ hơn và đứt đoạn. Có một đường chạy ngang qua gáy. Từ mắt có ba đường đen nhỏ, hai đường chạy xiên xuống môi trên còn một đường qua thái dương nối với vòng đen ở gáy.
Sinh học - Sinh thái: Loài rắn không độc sống trên cạn, song rất dữ, dễ bị kích thích, thường gặp ở đồng bằng và trung du, thường ẩn trong các hang chuột đã bỏ không, leo trèo giỏi trên các bờ rào, bụi cây um tùm, đôi khi trên mái nhà tranh. Khi gặp nguy hiểm có tập tính tự vệ đặc biệt. Dựng đứng một phần ba thân về phía trước lên khỏi mặt đất. Phần thân sau không cuộn tròn mà làm thành hình chữ S trên mặt đất. Cổ phình to theo chiều trước sau làm da cổ căng rộng để lộ rõ màu vàng và đen ở da giữa các vảy cổ. Miệng há rộng, hung hăng, doạ nạt, dữ tợn như tập tính của rắn ráo hoặc rắn hổ trâu khi chuẩn bị cắn vào kẻ thù. Bắt mồi cả vào ban ngày và ban đêm. Có tập tính săn đuổi mồi. Mồi chủ yếu là chuột, ngoài ra có cả thằn lằn và ếch nhái, đôi khi ăn cả cá và chim non. Đẻ trứng từ tháng 5 - 7, khoảng từ 5 - 12 trứng trong bụi cây hoặc trên lá khô và có tập tính canh trứng. Ở miền Bắc Việt Nam, rắn sọc dưa có tập tính trú đông trong hang chuột bỏ trống từ cuối tháng 11 đến khoảng giữa tháng 3.
Phân bố: Việt Nam, Ấn Độ, Bangladesh, Trung Quốc, Myanmar, Lào, Thái Lan, Campuchia, Malaysia, Singapore, Indonesia.
Giá trị: Có giá trị bảo vệ thực vật (diệt chuột), thương phẩm (da thuộc dài, rộng, đẹp), thực phẩm đặc sản và dược liệu: ngâm chung cùng với rắn ráo trâu vào rượu ngâm bộ ba (cạp nong, hổ mang, rắn ráo) (rượu Tam xà) thành rượu ngâm bộ năm rắn (rượu Ngũ xà) cổ truyền chữa tê thấp và đau nhức khớp xương.
三索頜腔蛇(學名:Coelognathus radiatus),舊稱三索錦蛇,主要分布於印度東北部、印尼(包括蘇門答臘、邦加島)、柬埔寨、新加坡、泰國、華南地區(包括福建、雲南、廣西、廣東、香港)、越南、緬甸、寮國及尼泊爾等。其標本產地為爪哇。多栖息于平原、丘陵及山区的河谷地带。其生存的海拔上限为1400米。
三索頜腔蛇正常體長約有1至2米,最高紀錄為2.3米。鱗片幼細,體色呈灰色及黃色,身體兩側有四條較明顯的長型條紋。虹膜呈黃色,並且從眼睛中心處有三至四條放射式的黑色線,其學名「Radiatus」所表示的輻射亦是由此而來。
三索頜腔蛇平日多棲息於森林、草原、農地,當遇到敵人時,身體會扭曲成「S」型以威嚇對手。主要食物包括齧齒目動物、蛙類、鳥類與及蜥蜴。繁殖方面,三索頜腔蛇屬卵生動物,每逢4月至7月開始生產,雌蛇每次能誕下6至15枚蛇卵。
三索頜腔蛇(學名:Coelognathus radiatus),舊稱三索錦蛇,主要分布於印度東北部、印尼(包括蘇門答臘、邦加島)、柬埔寨、新加坡、泰國、華南地區(包括福建、雲南、廣西、廣東、香港)、越南、緬甸、寮國及尼泊爾等。其標本產地為爪哇。多栖息于平原、丘陵及山区的河谷地带。其生存的海拔上限为1400米。