Escherichia coli (thường ghi tắt: E. coli) là một loài vi khuẩn Gram âm, phân bố rất rộng trong môi trường sống trên Trái Đất, hay có mặt ở thực phẩm, nguồn nước, thường kí sinh trong ruột già của người và hầu hết các loài Thú đẳng nhiệt.[1][2][3] Đa số các chủng E. coli là vô hại mặc dù kí sinh, chỉ một số dòng có thể gây ngộ độc thức ăn, gây bệnh đường ruột.[4][5] Trong những trường hợp nhất định, chúng còn giúp vật chủ nhờ sản xuất vitamin K2,[6] và chống sự xâm lấn của một vài mầm bệnh khác, tạo nên một mối quan hệ cộng sinh.[7][8]
E. coli thường được nhắc đến chủ yếu vì nó là loài sinh vật mô hình rất quan trọng trong Sinh học hiện đại, đặc biệt trong Di truyền học phân tử. Ngoài ra, sự có mặt của chúng trong nguồn nước là một chỉ tiêu quan trọng để đo độ sạch của nước, do E. coli bị thải ra môi trường qua phân, có khả năng tiếp tục tạo nên các quần thể sống tự do, sinh trưởng mạnh trong phân tươi ở điều kiện yếm khí vài ba ngày rồi mới giảm tăng trưởng.[9][10]
2015: Giải Nobel Hóa học năm 2015 được trao cho Tomas Lindahl, Paul Modrich và Aziz Sancar “cho các nghiên cứu cơ học về sửa chữa DNA” khi nghiên cứu về Escherichia coli.
2008: Prôtêin huỳnh quang xanh dùng đánh dấu theo dõi các thành phần của tế bào vi khuẩn.
1999: Các chuỗi tín hiệu trên prôtêin biểu hiện phương thức tế bào tự tổ chức.
1997: Phương thức tế bào tạo ra ATP - năng lượng của sự sống.
1989: Vai trò bổ sung của ARN.
1980: Tái tổ hợp ADN.
1978: Các enzym giới hạn có vai trò như chiếc “kéo” cho phép các nhà khoa học cắt ADN.
1969: Sự nhân lên của virus trong tế bào vật chủ.
1968: Hoàn thiện về mã di truyền, "ngôn ngữ" của ADN.
1965: Điều hoà gen: gen được "bật" hoặc "tắt" như thế nào.
1959: Cơ chế nhân đôi ADN, nhờ đó sự sống được chuyển giao cho đời sau.
1958: Giới tính ở vi khuẩn và phương thức vi khuẩn chia sẻ gen với nhau.
Những nghiên cứu về loài vi khuẩn này nhiều đến mức không chỉ dẫn đến các thành tựu nổi bật đã liệt kê ở trên, mà còn tạo ra một bộ môn được coi như là một nhánh quan trọng của ngành Sinh học gọi là Sinh học E. coli (Escherichia coli Biology), bao gồm các kiến thức từ mô tả hình thái, sinh lý theo kiểu cổ điển cho đến thành phần sinh hoá, hoạt động của bộ gen ở cấp độ phân tử trong Di truyền học phân tử và Sinh hoá học của loài này.
Escherichia coli (thường ghi tắt: E. coli) là một loài vi khuẩn Gram âm, phân bố rất rộng trong môi trường sống trên Trái Đất, hay có mặt ở thực phẩm, nguồn nước, thường kí sinh trong ruột già của người và hầu hết các loài Thú đẳng nhiệt. Đa số các chủng E. coli là vô hại mặc dù kí sinh, chỉ một số dòng có thể gây ngộ độc thức ăn, gây bệnh đường ruột. Trong những trường hợp nhất định, chúng còn giúp vật chủ nhờ sản xuất vitamin K2, và chống sự xâm lấn của một vài mầm bệnh khác, tạo nên một mối quan hệ cộng sinh.
E. coli thường được nhắc đến chủ yếu vì nó là loài sinh vật mô hình rất quan trọng trong Sinh học hiện đại, đặc biệt trong Di truyền học phân tử. Ngoài ra, sự có mặt của chúng trong nguồn nước là một chỉ tiêu quan trọng để đo độ sạch của nước, do E. coli bị thải ra môi trường qua phân, có khả năng tiếp tục tạo nên các quần thể sống tự do, sinh trưởng mạnh trong phân tươi ở điều kiện yếm khí vài ba ngày rồi mới giảm tăng trưởng.