Pangasius kunyit és una espècie de peix de la família dels pangàsids i de l'ordre dels siluriformes.
Les femelles poden assolir els 70,2 cm de llargària total.[4]
Es troba a Àsia: Sumatra (Indonèsia), Sabah (Malàisia) i el delta del riu Mekong (Vietnam).[4]
És considerat un bon candidat per a ésser criat en aqüicultura i la seua reproducció en captivitat ja s'ha aconseguit al delta del riu Mekong (Vietnam).[5]
Pangasius kunyit és una espècie de peix de la família dels pangàsids i de l'ordre dels siluriformes.
Pangasius kunyit ist eine Fischart aus der Gattung Pangasius, innerhalb der Familie der Haiwelse. Die Art kommt in den größeren Wasserläufen Sumatras und Borneos vor. 2003 wurden aus der Art die Arten Pangasius mekongensis und Pangasius sabahensis ausgegliedert.
Die Art hat einen breiten, gerundeten Kopf mit vorstehender Schnauze. Die Zahnplatte am Zwischenkieferbein ist bei geschlossenem Maul sichtbar. Die Barteln sind mittellang und erreichen nicht den Rand des Kiemendeckels. Die Kiemenreuse hat 24 bis 32 Strahlen am ersten Bogen. Der Körper ist sehr hoch. Die Rückenflosse trägt zwei Hartstrahlen, von denen der erste sehr kurz ist, und sechs oder sieben Weichstrahlen, von denen der erste manchmal eine filamentartige Verlängerung trägt. Der lange Hartstrahl weist auf der Vorderseite eine bis zu 44-zähnige Sägung auf. Die Brustflossen weisen 10 bis 11 Weichstrahlen auf, von denen der erste manchmal filamentartig verlängert ist. Die Bauchflossen weisen sechs Weichstrahlen auf, die Afterflosse 29 bis 35. Die Fettflosse ist gut entwickelt, die Schwanzflosse ist kurz. Der Rücken ist dunkel, der Bauch weißlich gefärbt. Bei lebenden oder frisch gefangenen Tieren zeigt sich ein goldener Schimmer auf Rücken, Flanken und Flossen. Tiere aus höheren Flussregionen sind allgemein heller. Die Art erreicht eine Länge von bis zu 70 cm.
Die Art besiedelt tiefes Süß- und Brackwasser und ernährt sich von Weichtieren, Gliederfüßern, Fischen und Pflanzen. Im Magen von Tieren aus Mündungsbereichen wurden auch marine Wirbellose gefunden.
Pangasius kunyit ist eine Fischart aus der Gattung Pangasius, innerhalb der Familie der Haiwelse. Die Art kommt in den größeren Wasserläufen Sumatras und Borneos vor. 2003 wurden aus der Art die Arten Pangasius mekongensis und Pangasius sabahensis ausgegliedert.
Pangasius kunyit es una especie de peces de la familia Pangasiidae en el orden de los Siluriformes.
• Los machos pueden llegar alcanzar los 70,2 cm de longitud total.[1]
Se encuentran en Asia: Sumatra (Indonesia), Sabah (Malasia) y el delta del Mekong (Vietnam).
Es considerado un buen candidato para ser criado en acuicultura y su reproducción en cautividad se ha conseguido en el delta del río Mekong (Vietnam ).
Pangasius kunyit es una especie de peces de la familia Pangasiidae en el orden de los Siluriformes.
Pangasius kunyit Pangasius generoko animalia da. Arrainen barruko Pangasiidae familian sailkatzen da.
Pangasius kunyit Pangasius generoko animalia da. Arrainen barruko Pangasiidae familian sailkatzen da.
Patin kunyit (Pangasius kunyit) adalah sejenis ikan bermisai anggota suku Pangasiidae. Ikan ini tercatat menyebar di sungai-sungai besar di Kalimantan dan Sumatra.
Ikan patin yang dapat mencapai ukuran besar, panjang total tubuh dapat melebihi 100 cm. Ukuran spesimen museum yang terbesar adalah 702 mm SL (standard length, panjang standar; yakni dari moncong hingga akhir batang ekor, tanpa sirip ekor), dengan panjang total sekitar 830 mm.[2]
Kepalanya panjang, agak-agak berbentuk spatulata, lebar dan membundar di bagian moncong. Panjang kepala 21,2-25,4 %SL; lebar kepala 15,7-18,9 %SL; tinggi kepala 10,3-13,4 %SL; dan panjang moncong 45,9-53,9 %HL (head length, panjang kepala). Jarak antara ujung moncong dengan isthmus relatif pendek, 78,5-96,1 %SNL (snout length, panjang moncong). Panjang pelat gigi tambahan (kecil, di kanan kiri pelat gigi vomerin di langit-langit mulut) antara 6,9-14,0 %HL. Jumlah sisir saring 24-32 buah pada lengkung insang yang pertama.[2]
Tubuhnya memanjang, dengan jarak predorsal (predorsal length) 32,8-36,1 %SL. Tinggi tubuh, 3½-4 kalinya sebanding dengan panjang standar. Sebuah duri (patil) yang besar dan kokoh terdapat di awal sirip dorsal (punggung), diikuti dengan 6-7 jari-jari lunak. Sisi belakang patil dorsal dengan gerigi besar yang berjumlah hingga 44 buah. Sebuah duri (patil) pada masing-masing sirip pektoral (dada), masing-masing dengan lebih dari 40 gerigi kuat di sisi belakangnya, serta banyak gerigi halus di sisi depannya. Sirip ventral (perut) dengan 6 jari-jari lunak, dan sirip anal dengan 29-35 jari-jari lunak.[2]
Patin kunyit menghuni sungai-sungai besar di Pulau Kalimantan dan Sumatra. Spesimina dikoleksi dari Sungai Mahakam di Kaltim (dari wilayah Samarinda dan Sanga-Sanga), Sungai Barito di Kalsel (Banjarmasin dan Kuala Kapuas), Sungai Kapuas di Kalbar (Pontianak), Sungai Indragiri di Riau (Rengat), Sungai Musi di Sumsel (Palembang), dan Batang Hari di Jambi (Jambi, Muara Jambi dan Muara Tebo).[2]
Habitatnya adalah perairan tawar dan payau, pada bagian hilir sungai hingga ke estuaria, terutama di tempat-tempat yang berair dalam. Ikan ini memangsa invertebrata air dan juga ikan-ikan kecil.[1] Pengamatan di Sungai Kampar, Riau, mendapatkan bahwa mangsa ikan ini sangat bervariasi, mulai dari ikan, serangga, krustasea, moluska, bagian-bagian tumbuhan, detritus, bahkan juga ular.[3]
Patin kunyit merupakan ikan konsumsi yang digemari orang, dan biasa tersedia dalam keadaan segar di pasar-pasar setempat, khususnya di sekitar sungai-sungai besar di Sumatra dan Kalimantan. Ikan ini ditangkap dengan jaring insang, dan juga dengan pancing.
Ikan ini telah dikembangkan pembiakannya di wilayah Kuantan Singingi[4], dan bahkan telah berhasil panen di Rokan Hilir.[5]
Pangasius kunyit berkerabat dekat dengan P. mekongensis yang sejauh ini baru tercatat dari wilayah hilir Sungai Mekong, dan P. sabahensis yang juga baru tercatat keberadaannya dari lokasi tipe, yakni Sungai Kinabatangan di wilayah Sabah. Kedua spesies terakhir ini semula dianggap sebagai takson yang sama dengan P. kunyit, dan baru dipisahkan sebagai jenis yang tersendiri pada tahun 2003.[2]
Holotipe P. kunyit tersimpan pada Museum Zoologi Bogor (koleksi no MZB 10009). Lokasi tipe adalah Desa Sangasanga, lk. 30 km sebelah tenggara Samarinda, di tepi Sungai Mahakam.[1]
Nama penunjuk-jenis kunyit mengacu kepada nama lokalnya, serta warnanya yang kuning keemasan seperti kunyit.[1]
Patin kunyit (Pangasius kunyit) adalah sejenis ikan bermisai anggota suku Pangasiidae. Ikan ini tercatat menyebar di sungai-sungai besar di Kalimantan dan Sumatra.
Pangasius kunyit is een straalvinnige vissensoort uit de familie van reuzenmeervallen (Pangasiidae).[1] De wetenschappelijke naam van de soort is voor het eerst geldig gepubliceerd in 1999 door Pouyaud, Teugels & Legendre.
Bronnen, noten en/of referentiesCá dứa hay là cá tra bần (danh pháp hai phần: Pangasius kunyit) là loài cá thuộc họ Cá tra (Pangasiidae). Đây là loài cá có giá trị kinh tế và là một trong những loại cá da trơn được nuôi chủ lực ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam Việt Nam. Sản phẩm được đánh giá cao của chúng là khô cá dứa.
Cá dứa là loài cá nhiệt đới, phân bố rộng ở châu Á và di trú ở sông Mê Kông ở vùng nước lợ để sinh sản, khi cá lớn thì di chuyển về vùng cửa sông để sinh sống. Đây là loài cá nhiệt đới và là loài cá rộng muối, có thể sống trong môi trường nước ngọt và nước lợ, phân bố chủ yếu ở Indonesia, Malaysia, Việt Nam và một số nước khác.
Cá có hình dạng đầu (với các chỉ tiêu về tỉ lệ % chiều rộng mõm/chiều dài đầu: 40–53,4%, chiều rộng đầu/chiều dài đầu: 70,7–76,6 %), gai vi lưng. cá có vết tích hình rẻ quạt trên 2 nắp mang của cá và mờ dần khi cá càng lớn. Khi cá trưởng thành có thể nặng tới 15- 20 ký/con.[1] Cá dứa không có ngạnh, thịt béo ngọt, trắng hồng, ít mỡ, săn chắc, thơm ngọt và không tanh.[2]
Trong tự nhiên, chúng sống ở tầng nước khá sâu, trên sông Mekong. Cá dứa cũng như các loại cá khác trong họ Cá tra có tập tính di lưu sinh sản, khoảng tháng 5 đến tháng 10 cá con bắt đầu di chuyển dần ra vùng cửa sông giáp biển để sinh sống. Có tập tính di lưu sinh sản chia làm 02 nhóm:
Cá có thể thích nghi ở vùng nước mặn và lợ.[2] Trong môi trường nuôi nhốt, cá thích nghi, tăng trưởng tốt trong điều kiện nước lợ, có độ mặn: 5 – 18 %o[1] Ngoài thức ăn chính là động vật phù du, cá dứa còn ăn trái các loài cây vùng ngập mặn như: mắm, bần, ổi… nên còn có tên là "cá tra bần".[3]
Cá dứa là loài cá có phẩm chất thịt rất ngon. Ở Việt Nam, đã sản xuất giống nhân tạo tại An Giang và nuôi thương phẩm thử nghiệm ở một số nơi như: Trà Vinh, Đồng Tháp, Cần Giờ, Nhà Bè.[1] Một số nơi có nghề đâm cá dứa như ở Cà Mau.[4] Canh chua cá dứa với bần chua hoặc cá dứa kho tộ ăn với các loại rau là những món đặc sản vùng sông nước.[5]
Cá dứa hay là cá tra bần (danh pháp hai phần: Pangasius kunyit) là loài cá thuộc họ Cá tra (Pangasiidae). Đây là loài cá có giá trị kinh tế và là một trong những loại cá da trơn được nuôi chủ lực ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam Việt Nam. Sản phẩm được đánh giá cao của chúng là khô cá dứa.