Fossorial, feeding on ants and termite larvae. Being parthenogenetic, the species has been highly successful in colonizing new territories rapidly.
Least Concern
The following description is of the first specimen reported from Egypt : total length 130 mm (up to 170 mm); tail 3.5 mm slightly longer than its width, terminating with a small conical spine; body cylindrical, rather thin, 2.7 mm wide, covered with smooth uniform sized scales, 20 transverse scale rows around the body; 320 dorsals between frontal and tail tip. Snout rounded. Eyes vestigial, visible below the juncture of the supraocular, preocular, and ocular. Rostral noticeably narrow, one-third of head width; nasals completely divided; nasal cleft proceeding from preocular. Four supralabials. Color is dark brownish purple, slightly lighter on the ventral side with the snout, tip of tail, and vent whitish. Generally darkest of all Egyptian Typhlops and Leptotyphlops.
Introduced. The first report of R. braminus from Egypt and northern Africa is by Baha El Din (1996b), who reported a single specimen found freshly dead on a road in the Cairo suburb of Maadi. Subsequently, the species has been reported in several localities in the vicinity of greater Cairo (Saleh 1997, Wallach 1999), the Suez Canal zone (Ibrahim 2005), Ain Sukhna, and Sharm El Sheikh.
It is apparent that R. braminus has been quite successful in colonizing new territory in Egypt. There are indications that it is well established in the Nile Valley and Delta where there is extensive suitable habitat for the species. At both Ain Sukhna and Sharm El Sheikh the species was found in tourist resorts, where gardens are planted with imported exotic vegetation, among which this tiny snake has probably been transported. The arrival of the species in Egypt seems to be recent. Examination of extensive Egyptian Typhlops and Leptotyphlops material in FMNH and NMNH collected between 1949 and 1960 (n= 217) did not produce a single R. braminus. The earliest material taken from Egypt appears to be a single specimen collected in 1984, but only recently identified as this species (Saleh 1997).
Ramphotyphlops braminus is one of the world's most widespread snakes (Gasperetti 1988). This species (commonly known as Flower-pot Snake) has been introduced to many parts of the world transported with exotic trees and shrubs. Current distribution includes Australia, south Asia, Arabia, sub-Saharan Africa, Madagascar, parts of the Far East and Central America, and the United States (Florida and Hawaii).
In Egypt it is found in cultivations and gardens in urban areas. Prefers muddy soils in damp humid areas.
An alien species with no conservation significance for Egypt.
Blomsterpotteslange er en ormeslange. Den har spredt seg med menneskelig hjelp til mange deler av verden, og er den terrestriske slangearten som har størst utbredelse.
Den er liten, og er som regel mellom 6 og 16 cm lang. Hodet har en butt snute, og er ikke bredere enn kroppen. Øynene er reduserte, men er synlige som to svarte flekker. Ryggfargen varierer fra sølvgrå til brun og purpursvart, mens buken er grå eller brun. Halen ender i en liten pigg.
Alle kjente eksemplarer av arten er triploide hunner, som formerer seg partenogenetisk. Den trives blant vissent løv i hager og parker, og individer som har gjemt seg i blomsterpotter og i rotklumpen på hageplanter, har bidratt til at arten har spredd seg.
Arten ble først beskrevet fra India, og hører hjemme i Sør- og Sørøst-Asia. Utbredelsen omfatter nå India (inkludert Andamanene og Nikobarene), Sri Lanka, Pakistan, Nepal, Burma, Thailand, Laos, Kambodsja, Vietnam, Malaysia, Indonesia, Filippinene, Sør-Kina, Taiwan, Ryukyuøyene, Australia, Ny-Guinea, mange øyer i Stillehavet, Den arabiske halvøy, tropisk Afrika, Seychellene, Komorene, Maskarenene, Madagaskar, Mexico, Iran, Guatemala, øyene i Karibia, USA (Florida og Hawaii), Egypt, Libya og Gran Canaria.
Blomsterpotteslange er en ormeslange. Den har spredt seg med menneskelig hjelp til mange deler av verden, og er den terrestriske slangearten som har størst utbredelse.
Den er liten, og er som regel mellom 6 og 16 cm lang. Hodet har en butt snute, og er ikke bredere enn kroppen. Øynene er reduserte, men er synlige som to svarte flekker. Ryggfargen varierer fra sølvgrå til brun og purpursvart, mens buken er grå eller brun. Halen ender i en liten pigg.
Alle kjente eksemplarer av arten er triploide hunner, som formerer seg partenogenetisk. Den trives blant vissent løv i hager og parker, og individer som har gjemt seg i blomsterpotter og i rotklumpen på hageplanter, har bidratt til at arten har spredd seg.
Arten ble først beskrevet fra India, og hører hjemme i Sør- og Sørøst-Asia. Utbredelsen omfatter nå India (inkludert Andamanene og Nikobarene), Sri Lanka, Pakistan, Nepal, Burma, Thailand, Laos, Kambodsja, Vietnam, Malaysia, Indonesia, Filippinene, Sør-Kina, Taiwan, Ryukyuøyene, Australia, Ny-Guinea, mange øyer i Stillehavet, Den arabiske halvøy, tropisk Afrika, Seychellene, Komorene, Maskarenene, Madagaskar, Mexico, Iran, Guatemala, øyene i Karibia, USA (Florida og Hawaii), Egypt, Libya og Gran Canaria.
Ramphotyphlops braminus lub Indotyphlops braminus[2] – gatunek węża z rodziny ślepuchowatych.
Gatunek ten osiąga długość od 14 cm do 15 cm[3]. Ciało w kolorze od szarego do ciemno brązowego. Łuski gładkie, stanowiące przystosowanie do życia podziemnego. Oczy pokryte łuskami. Jedyny wąż, który rozmnaża się poprzez partenogenezę, nigdy nie stwierdzono istnienia samców[4]. Samica składa bez zapłodnienia od 2 do 6 jaj o wymiarach 2 × 6 mm[3].
Tryb życia podziemny. Podstawę ich wyżywienia stanowią jaja, larwy i poczwarki mrówek i termitów.
Występuje na terenie Azji oraz Afryki. W Afryce Południowej pojawił się po raz pierwszy w Cape Town na początku XX wieku jako gatunek zawleczony z Azji[3] w doniczkach wypełnionych ziemią[5].
Ramphotyphlops braminus lub Indotyphlops braminus – gatunek węża z rodziny ślepuchowatych.
Gatunek ten osiąga długość od 14 cm do 15 cm. Ciało w kolorze od szarego do ciemno brązowego. Łuski gładkie, stanowiące przystosowanie do życia podziemnego. Oczy pokryte łuskami. Jedyny wąż, który rozmnaża się poprzez partenogenezę, nigdy nie stwierdzono istnienia samców. Samica składa bez zapłodnienia od 2 do 6 jaj o wymiarach 2 × 6 mm.
Tryb życia podziemny. Podstawę ich wyżywienia stanowią jaja, larwy i poczwarki mrówek i termitów.
Występuje na terenie Azji oraz Afryki. W Afryce Południowej pojawił się po raz pierwszy w Cape Town na początku XX wieku jako gatunek zawleczony z Azji w doniczkach wypełnionych ziemią.
Ramphotyphlops braminus[12] este o specie de șerpi din genul Ramphotyphlops, familia Typhlopidae, descrisă de Daudin 1803.[12][13] Conform Catalogue of Life specia Ramphotyphlops braminus nu are subspecii cunoscute.[12]
|access-date=
(ajutor)Mentenanță CS1: Nume multiple: lista autorilor (link)
Ramphotyphlops braminus este o specie de șerpi din genul Ramphotyphlops, familia Typhlopidae, descrisă de Daudin 1803. Conform Catalogue of Life specia Ramphotyphlops braminus nu are subspecii cunoscute.
Rắn giun thường (danh pháp hai phần: Ramphotyphlops braminus) là một loại bò sát thuộc họ Rắn giun (Typhlopidae). Bề ngoài giống như giun đất trưởng thành nên thường bị nhầm lẫn là giun, ngoại trừ là nó không phân đốt.
Tuy nhìn giống giun nhưng rắn giun là một loài rắn thực sự với đầy đủ các đặc điểm cấu tạo của rắn như có xương sống, có vảy và ngóc đầu lên khi bò.
Rắn giun xuất hiện ở Việt Nam không phải quá hiếm, nhưng do đặc điểm cơ thể thường bị nhầm với giun nên ít người chú ý.
Do tập tính sống trong đất nên mắt rắn giun thoái hóa, chỉ còn một chấm nhỏ hầu như không có tác dụng thị lực (vì vậy nhiều nơi còn gọi chúng là rắn mù). Rắn giun có màu nâu đen gần giống màu giun đất nhưng sậm hơn.
Rắn giun chủ yếu sống ở các khu vực ẩm ướt, gần các tổ kiến, mối[1]. Thức ăn chủ yếu của chúng là các ấu trùng, trứng... của kiến, mối. Chúng là loài sinh sản đơn tính (parthenogenesis), tất cả các cá thể được phát hiện từ trước đến nay đều là con cái. Đẻ mỗi lần khoảng 8 trứng, con nở ra có các đặc tính di truyền giống hệt con mẹ[1].
Loài rắn này được tìm thấy trên khắp Việt Nam, Thái Lan, bán đảo Malaysia, và Singapore. Nó cũng được ghi nhận từ châu Phi, vùng Trung Đông, các vùng còn lại của châu Á nhiệt đới và một số khu vực của châu Á có khí hậu ôn hòa, các đảo trên Thái Bình Dương, châu Mỹ (Mexico, Hoa Kỳ), Australia.
Số lượng loài rắn này tương đối ít, có lẽ là do đặc điểm sinh tồn riêng và sự sinh sản đơn tính chứ không hẳn do các hoạt động của con người.
Rắn giun thường (danh pháp hai phần: Ramphotyphlops braminus) là một loại bò sát thuộc họ Rắn giun (Typhlopidae). Bề ngoài giống như giun đất trưởng thành nên thường bị nhầm lẫn là giun, ngoại trừ là nó không phân đốt.
Tuy nhìn giống giun nhưng rắn giun là một loài rắn thực sự với đầy đủ các đặc điểm cấu tạo của rắn như có xương sống, có vảy và ngóc đầu lên khi bò.
Rắn giun xuất hiện ở Việt Nam không phải quá hiếm, nhưng do đặc điểm cơ thể thường bị nhầm với giun nên ít người chú ý.
鉤盲蛇(學名:Indotyphlops braminus)是蛇亞目盲蛇科下的一種無毒蛇種,主要分布在非洲及亞洲,不過現在鉤盲蛇的分布已推廣至世界各地。鉤盲蛇是棲息於地洞的蛇種,由於體型細小,加上善於掘洞,因此經常被誤認為蚯蚓,唯一分別就是鉤盲蛇的身體並沒有分成明顯的段節。另外,鉤盲蛇的學名,是由印度教名詞「Brahmin(婆羅門)」拉丁化而來的。目前鉤盲蛇下尚未有任何被確認的亞種。[3]鉤盲蛇在中國亦被稱為地鱔及鐵絲蛇。[4]
鉤盲蛇體型細小幼長,平均體長約只有6至17公分。牠們的頭部與尾巴兩端外表是一樣的,身體上也沒有明顯較為幼細的頸部,雙眼已經退化成兩顆小圓點。頭部的鱗片非常細碎,而且與身體其它部位的鱗片大小相同,而尾巴末端則有一枚很細小的尖鱗。成年的鉤盲蛇身體呈亮灰色或紫色。[5]鉤盲蛇的細小眼睛上蓋有一片透明薄膜,顯示其雙眼已經失去視能。牠們的眼睛並不能構成影像,不過仍有一定的感光能力。
鉤盲蛇主要分布地是非洲及亞洲,不過如今已經擴展至世界各地,在澳洲及美洲地均能找到牠們的蹤影。在非洲的喀麥隆、貝寧、南非、多哥、科特迪瓦、索馬里、桑給巴爾、坦桑尼亞海岸、莫桑比克、馬達加斯加、毛里裘斯及塞舌爾等地都能找到鉤盲蛇;在亞洲,鉤盲蛇則主要出沒於阿拉伯半島、伊朗、巴基斯坦、尼泊爾、印度、馬爾代夫、拉克沙群島、斯里蘭卡、孟加拉國、安達曼群島、尼科巴群島、緬甸、泰國、寮國、柬埔寨、越南、琉球群島、台灣、香港、華南地區、海南島、馬來半島、新加坡、新畿內亞、蘇門答臘與及附近的島群。在澳洲,鉤盲蛇分布於達爾文市、昆士蘭北端等地。而在美洲,鉤盲蛇則出現於美國的麻省、佛羅里達等地區,亦散見於墨西哥及危地馬拉等地。[1]鉤盲蛇也是目前拉克沙群島上所發現的唯一蛇種。[6]
鉤盲蛇經常在市區及農地出沒,牠們生活於地下,並居於螞蟻或白蟻的巢穴中。[5]牠們亦會生活於潮濕森林中的樹木內。鉤盲蛇的生息地帶主要取決於濕度及溫度。[6]鉤盲蛇以螞蟻及白蟻為食,亦會進食牠們的卵及幼蟲。[5]
鉤盲蛇是單性繁殖的蛇種,因此目前所有研究所能收集的鉤盲蛇樣本都是雌性的。牠們主要會以卵生形式作繁殖,有時亦會直接產出幼蛇,每次的生產量約為8隻。[5]
|access-date=
中的日期值 (帮助) 鉤盲蛇(學名:Indotyphlops braminus)是蛇亞目盲蛇科下的一種無毒蛇種,主要分布在非洲及亞洲,不過現在鉤盲蛇的分布已推廣至世界各地。鉤盲蛇是棲息於地洞的蛇種,由於體型細小,加上善於掘洞,因此經常被誤認為蚯蚓,唯一分別就是鉤盲蛇的身體並沒有分成明顯的段節。另外,鉤盲蛇的學名,是由印度教名詞「Brahmin(婆羅門)」拉丁化而來的。目前鉤盲蛇下尚未有任何被確認的亞種。鉤盲蛇在中國亦被稱為地鱔及鐵絲蛇。
ブラーミニメクラヘビ(学名:Ramphotyphlops braminus)は、爬虫綱有鱗目メクラヘビ科メクラヘビ属に属するヘビである。ミミズヘビとも呼ばれる。
全長は160 - 220mm、頭胴長128 - 180mm[1]。生きたものはミミズに似ているが、ミミズとは違い体節がなく、鱗に覆われ、舌を出し入れすることから本種であることが分かる[2][1]。頭部は丸く、頸部は他のヘビ類のようにはくびれていない。目はあるが非常に小さく痕跡的で、光のみを感じ取ることができるとされる[2][1]。毒は持たない。
体色は灰褐色、もしくは茶褐色で、鱗には光沢がある。背面の体鱗数は14[2]。
草地やサトウキビ畑、林縁など日当たりのよい乾燥した土壌に生息していて[3][1]、石や倒木の下、側溝の落ち葉がたまっているところで見かける。
ヘビ類で唯一オスが存在せず、メスのみで単為生殖をする[3]。繁殖期は日本の南西諸島で6月中旬から7月中旬にかけて[3]。繁殖形態は卵生で、1回の繁殖で通常は1 - 6個、最大で8個の卵を産む[2][3]。
食性は肉食性で、主にアリやシロアリなどの卵や蛹、小型の節足動物などを捕食する[3][1]。
石や落ち葉の下・畑の土中などを探せば見つけることができ、多くの大型土壌動物と同様に、側溝に落ちたまま上がれなくなって囚われた状態になっている個体を見る事も多い。干からびて死んだものは針金そっくりである。
捕まえるとミミズのように体をくねらせ、先のとがった尾でつつく[1]。
原産地は判然としないがアジア南東部と考えられており、世界中の熱帯・亜熱帯地域に移入されている[2]。日本国内では外来種であり静岡県(本土および伊豆諸島八丈島)、長崎県、鹿児島県、大隅諸島(種子島)、トカラ列島(諏訪之瀬島以南)、南西諸島、小笠原諸島などに移入された[3]。移入された地域を含むと、ヘビ類の中では最も広く分布している種とされる[2]。
日本への進入経路は観葉植物の商業的栽培など植物の移出入時に、植木鉢内や根の周りの土壌に潜入して持ち込まれたと考えられているが、移入時期、移入もとともに不明である[3]。フロリダでは1983年に最初に記録され、以降、フロリダ半島の大部分で見つかっている[2]。