Parachela oxygastroides és una espècie de peix de la família dels ciprínids i de l'ordre dels cipriniformes.
Els mascles poden assolir els 20 cm de longitud total.[3][4]
Es troba des d'Indoxina fins a Borneo i Java.[3]
Parachela oxygastroides és una espècie de peix de la família dels ciprínids i de l'ordre dels cipriniformes.
Parachela oxygastroides, also known as the glass fish, is a freshwater fish of the family Cyprinidae. It is found in Southeast Asia in rivers and wetlands, including seasonally flooded forests. Of length 10–20 cm, it is caught commercially for food and sold in markets; it is one of the species used in Cambodian cuisine to make the fish paste prahok.[2][3]
Parachela oxygastroides, also known as the glass fish, is a freshwater fish of the family Cyprinidae. It is found in Southeast Asia in rivers and wetlands, including seasonally flooded forests. Of length 10–20 cm, it is caught commercially for food and sold in markets; it is one of the species used in Cambodian cuisine to make the fish paste prahok.
Parachela oxygastroides es una especie de peces de la familia de los Cyprinidae en el orden de los Cypriniformes.[2]
Los machos pueden llegar alcanzar los 20 cm de longitud total,[3] aunque la longitud normal es de unos 10 cm.
Es un pez de agua dulce tropical, de comportamiento pelágico, que habita en los ríos y lagos desde Indochina hasta Borneo e Java.[4]
Parachela oxygastroides es una especie de peces de la familia de los Cyprinidae en el orden de los Cypriniformes.
Parachela oxygastroides Parachela generoko animalia da. Arrainen barruko Actinopterygii klasean sailkatzen da, Cyprinidae familian.
Parachela oxygastroides Parachela generoko animalia da. Arrainen barruko Actinopterygii klasean sailkatzen da, Cyprinidae familian.
Lalang[4], pimping[5], atau sepimping[6] (Parachela oxygastroides) adalah sejenis ikan air tawar anggota suku Cyprinidae (kerabat ikan mas). Ikan ini ditemukan di Asia Tenggara, mulai dari Indocina hingga Indonesia bagian barat[7].
Juga dikenal sebagai siamis[4]; lunjar pari (Sd.); wader pari (Jw.); seluang, repang (Jambi); lalang (Banjarmasin); dan kedukul (Kaltim)[8].
Ikan berukuran kecil hingga sedang, panjang standar (SL, standard length) mencapai lebih dari 200 mm. Badannya memanjang, sangat memipih tegak. Profil punggungnya hampir mendatar, sementara perbatasan tengkuk dan kepala sedikit mencekung di belakang moncong yang mendongak. Tepi perut melengkung ke luar, dengan lunas tajam di tepinya. Tinggi tubuh sekira 3,2-3,6 kalinya sebanding dengan panjang standar; sementara panjang kepalanya 4,3-4,6 kalinya sebanding dengan panjang standar.[8] Sisik-sisik di tengkuk ke arah kepala mencapai sebelah atas bagian depan mata.[9]
Awal sirip dorsal (punggung) kurang lebih sejajar dengan sirip anal (dubur), jauh lebih dekat ke pangkal ekor daripada ke kepala. Sirip pektoral (dada) lebih panjang 1/3-nya daripada kepala, ujungnya mencapai sirip ventral (perut) atau bahkan anus. Sirip ventral tertancap di sisi tubuh, sedikit di atas garis tepi perut. Sirip ekor berbelah dalam, lk. sama panjang dengan kepala. Rumus sirip dorsal: II jari-jari keras (duri) dan 7 jari-jari lunak; sirip anal (dubur) III, 28-32; sirip pektoral (dada) II, 11-13; dan sirip ventral (perut) II, 6. Sisik-sisik dengan gurat sisi berjumlah 40-43; gurat sisi menurun perlahan dalam lengkungan tipis, berbelok di sekitar awal sirip ventral.[8]
Cokelat kekuningan, dengan kilau keperakan, dan sejalur pita keperakan memanjang di sisi tubuh. Sirip-sirip bertabur dengan sedikit atau banyak bintik hitam; pada kedua cabang sirip ekor membentuk pita memanjang kehitaman yang acap kali samar-samar.[8]
Ikan ini menyebar di Thailand (S. Mekong, S. Chao Phraya), Semenanjung Malaya, Sumatra, Jawa dan Kalimantan[10]. Spesimen contoh tercatat diperoleh dari Sungai Musi (Palembang); Lahat; Sungai Batanghari (Jambi); Danau Tador (=Laut Tador?); Jakarta, Karawang, Danau Kamojing dekat Cihampeh, Kediri, Tulungagung; Sungai Kapuas (Pontianak, Sintang, Semitau, Putussibau), Seberuang, Kenapai, Danau Seriang, Sungai Sambas, Sungai Kusan (Prabukarta), Sungai Mahakam (Samarinda), Batu Pangal, Sungai Bo, Riko Hulu[8].
Populasi ikan lalang sejauh ini masih dianggap aman dari kepunahan, yakni berstatus LC, least concern menurut Daftar Merah IUCN[11].
Lalang merupakan ikan konsumsi bernilai lokal di daerah sebarannya. Ikan yang muda kadang-kadang dipelihara dan diperdagangkan sebagai ikan hias.
Parachela cyanea memiliki banyak ciri serupa P. oxygastroides, dan kedua jenis ini ditemukan hidup simpatrik di perairan tawar Kalimantan Barat. Akan tetapi P. cyanea memiliki sirip anal dengan 23-26 jari-jari lunak (bercabang); 36-38 sisik dengan gurat sisi; tubuh dengan kilau kebiruan, dan bintik hitam di pangkal sirip ekornya.[12]
Lalang, pimping, atau sepimping (Parachela oxygastroides) adalah sejenis ikan air tawar anggota suku Cyprinidae (kerabat ikan mas). Ikan ini ditemukan di Asia Tenggara, mulai dari Indocina hingga Indonesia bagian barat.
Juga dikenal sebagai siamis; lunjar pari (Sd.); wader pari (Jw.); seluang, repang (Jambi); lalang (Banjarmasin); dan kedukul (Kaltim).
Parachela oxygastroides is een straalvinnige vissensoort uit de familie van de eigenlijke karpers (Cyprinidae).[1] De wetenschappelijke naam van de soort is voor het eerst geldig gepubliceerd in 1852 door Bleeker.
Bronnen, noten en/of referentiesCá lành canh (danh pháp hai phần: Parachela oxygastroides) là một loài cá nhỏ thuộc chi Parachela, họ Cá chép. Đây là một loài cá đặc trưng và được tìm thấy ở cả vùng nước ngọt và nước mặn thuộc Đông Nam Á: bao gồm Đông Dương, Thái Lan tới Borneo và Java.[1][2]
Cá lành canh có đầu nhỏ màu trắng nhạt, dẹp hai bên, mõm nhọn, hướng lên phía trên. Thân của chúng dài, dẹp, đường lưng lõm xuống ở phần mũi, lườn bụng bén, cong lồi. Đỉnh đầu và lưng có màu xanh đen, nhạt dần xuống phía bụng. Vây lưng có nhiều sắc tố đen trong khi vây đuôi có màu vàng và đen ở viền. Loài cá này có vẩy mỏng màu ánh bạc và có một sọc đen đậm chạy dọc theo trục giữa của thân, kéo dài từ phía trên nắp mang đến giữa gốc vây đuôi.
Cá lành canh có chiều dài khoảng 20 mm, nặng 20 g, sinh trưởng và lớn chậm, đạt độ tuổi sinh sản sau khoảng 1 năm. Chúng sinh sản vào khoảng tháng 4 - 5. Trứng được đẻ ở vùng trung lưu các sông, sau đó trôi ra cửa sông thì nở.
Thức ăn của cá lành canh là các sinh vật phù du và động vật cỡ nhỏ. Cá lành canh thịt trắng thơm ngon, được sử dụng trong các món ăn ở Đông Nam Á như canh cá lành canh, chả cá lành canh.
Cá lành canh (danh pháp hai phần: Parachela oxygastroides) là một loài cá nhỏ thuộc chi Parachela, họ Cá chép. Đây là một loài cá đặc trưng và được tìm thấy ở cả vùng nước ngọt và nước mặn thuộc Đông Nam Á: bao gồm Đông Dương, Thái Lan tới Borneo và Java.