Chi Chó (Canis) là một chi sinh vật bao hàm 7-10 loài vật hiện còn tồn tại (tỉ như chó nhà, chó sói, chó sói đồng cỏ Bắc Mỹ, chó rừng) và nhiều loài sinh vật khác đã tuyệt chủng.
Tên khoa học của chi Chó (Canis) có nghĩa là "chó" trong tiếng La Tinh. Trong tiếng Anh, tính từ canine cũng bắt nguồn từ tính từ caninus của tiếng La Tinh ("thuộc về loài chó"). Danh từ "canine" hay "canine tooth" trong tiếng Anh cũng dùng để ám chỉ răng nanh vì chó có nanh to và sắc như dao cạo - dùng để cắn xé con mồi.
Chó sói, chó nhà và chó rừng Úc là các Phân loài của Canis lupus. Phân loài chó sói Á-Âu được đặt tên khoa học là Canis lupus lupus nhằm phân biệt với các phân loài chó sói khác như sói Iran, sói Ả Rập hay sói Tây Tạng. Chó sói Á-Âu tỏ ra có quan hệ huyết thống gần gũi hơn cả với loài chó nhà (Canis lupus familiaris) hiện nay.
Một số chuyên gia cho rằng một số phân loài của Canis lupus thật ra là các loài riêng biệt trong chi Chó. Danh sách các loài "nghi ngờ" này bao hàm cả chó sói Himalaya, chó sói Ấn Độ, sói đỏ ở Bắc Mỹ và chó sói phương Đông. Chó hoang Úc hay chó hoang Dingo (C. lupus dingo) và chó nhà (C. lupus familiaris) cũng được xem là một phân loài của Canis lupus mặc dù ít ai nghĩ hay đề cập tới chúng với cái tên "chó sói".[2]
Không chỉ có loài C. lupus được gọi tên là chó sói mà một số loài khác trong chi này cũng vậy, tuy nhiên phần lớn trong số chúng đã tuyệt chủng hoặc ít được công chúng biết đến. Một trong số đó, loài chó sói Canis dirus tuyệt chủng cách đấy 10 nghìn năm được biết đến khá rộng rãi nhờ hàng nghìn hóa thạch của chúng được tìm thấy và trưng bày tại hồ hắc ín La Brea tại Los Angeles, California.
Canis dirus là một ví dụ điển hình cho thấy từ "chó sói" không được định nghĩa một cách chặt chẽ, vì nhiều loại "chó" vẫn được gọi là chó sói dù chúng không thuộc loài chó sói "chuẩn" Canis lupus. Các ví dụ khác là loài chó sói Ethiopia Canis simensis; loài này từng trải qua nhiều lần thay tên đổi họ vì hình thái nhỏ con dễ khiến nó bị nhìn nhầm là chó rừng hay cáo, tuy nhiên các kết quả nghiên cứu di truyền và phân loài học đã đem đến cái tên chó sói Ethiophia.
Các loài chó còn lại, với kích thước nhỏ hơn chó sói nhiều, được gọi là chó rừng (jackal) hay chó sói đồng cỏ Bắc Mỹ (coyote). Mặc dù chúng không có quan hệ huyết thống gần gũi với nhau hơn là với chó sói, dầu sao chúng vẫn là thành viên của chi Chó và vì vậy quan hệ huyết thống của chúng gần với chó sói và chó nhà hơn là với các loài cáo, sói bờm hay các loài "chó" không thuộc chi Chó khác. Cái tên "chó rừng" (jackal) được áp dụng cho 3 loài của chi Chó: Chó rừng vằn hông (Canis adustus), Chó rừng lưng đen (Canis mesomelas) và Chó rừng lông vàng (Canis aureus), các loài này có thể được tìm thấy ở Bắc Phi, bán đảo Ban Căng, Tây Nam Á và vùng phía Nam của Trung Á.
Khu vực Bắc Mỹ chỉ có một loài chó "nhỏ" duy nhất là chó sói đồng cỏ Bắc Mỹ, loài này lại được phân bổ hết sức rộng rãi và chiếm lĩnh các khu vực định cư của chó sói trước đây. Chúng có thể được tìm thấy ở lục địa Canada, ở tất cả các bang lục địa của Hoa Kỳ, Mêhicô (trừ bán đảo Yucatán), và ở khu vực Trung tâm và ven bờ Thái Bình Dương của Trung Mỹ, xuống tận tới vùng phía Bắc của Panama.
Chi Chó (Canis) là một chi sinh vật bao hàm 7-10 loài vật hiện còn tồn tại (tỉ như chó nhà, chó sói, chó sói đồng cỏ Bắc Mỹ, chó rừng) và nhiều loài sinh vật khác đã tuyệt chủng.