dcsimg

Lừa hoang Trung Á ( Vietnamese )

provided by wikipedia VI

Lừa rừng Trung Á, tên khoa học Equus hemionus, là một loài động vật có vú lớn thuộc về Họ Ngựa, bộ Perissodactyla. Loài này được Pallas mô tả năm 1775.[1] Chúng có nguồn gốc ở các vùng sa mạc của Syria, Iran, Ấn ĐộTây Tạng.

Giống như nhiều loài động vật lớn ăn cỏ khác, khu vực phân bổ của chúng bị thu hẹp lại chủ yếu dưới áp lực của việc săn bắn và mất môi trường sinh sống. Trong số 6 phân loài thì một đã tuyệt chủng và hai loài đang nguy cấp. Lừa hoang Tây Tạng (Equus kiang), một họ hàng gần ở Tây Tạng, nói chung được coi là loài riêng, mặc dù một số học giả vẫn phân loại chúng như là một phân loài của lừa rừng Trung Á (E. hemionus kiang).

Lừa rừng Trung Á lớn hơn một chút so với lừa. Chúng nặng khoảng 290 kg và dài khoảng 2,1 mét (độ dài bao gồm đầu và thân), và là tương tự như ngựa nhiều hơn. So với ngựa thì chân của chúng ngắn hơn và màu lông của chúng dao động phụ thuộc theo mùa. Nói chung, lông của chúng có màu nâu ánh đỏ trong mùa hè, trở thành nâu ánh vàng trong các tháng mùa đông. Chúng có sọc màu đen có viền màu trắng mở rộng xuống phía dưới của đoạn giữa lưng.

Lừa rừng Trung Á đã được người Sumer cổ đại sử dụng để kéo xe kể từ khoảng năm 2600 TCN.

Phân loài

Xem thêm

Tham khảo

  1. ^ a ă Wilson, D. E.; Reeder, D. M. biên tập (2005). “Equus hemionus”. Mammal Species of the World . Baltimore: Nhà in Đại học Johns Hopkins, 2 tập (2.142 trang). ISBN 978-0-8018-8221-0. OCLC 62265494.

Liên kết ngoài

 src= Wikispecies có thông tin sinh học về Lừa hoang Trung Á  src= Wikimedia Commons có thư viện hình ảnh và phương tiện truyền tải về Lừa hoang Trung Á
license
cc-by-sa-3.0
copyright
Wikipedia tác giả và biên tập viên
original
visit source
partner site
wikipedia VI

Lừa hoang Trung Á: Brief Summary ( Vietnamese )

provided by wikipedia VI

Lừa rừng Trung Á, tên khoa học Equus hemionus, là một loài động vật có vú lớn thuộc về Họ Ngựa, bộ Perissodactyla. Loài này được Pallas mô tả năm 1775. Chúng có nguồn gốc ở các vùng sa mạc của Syria, Iran, Ấn ĐộTây Tạng.

Giống như nhiều loài động vật lớn ăn cỏ khác, khu vực phân bổ của chúng bị thu hẹp lại chủ yếu dưới áp lực của việc săn bắn và mất môi trường sinh sống. Trong số 6 phân loài thì một đã tuyệt chủng và hai loài đang nguy cấp. Lừa hoang Tây Tạng (Equus kiang), một họ hàng gần ở Tây Tạng, nói chung được coi là loài riêng, mặc dù một số học giả vẫn phân loại chúng như là một phân loài của lừa rừng Trung Á (E. hemionus kiang).

Lừa rừng Trung Á lớn hơn một chút so với lừa. Chúng nặng khoảng 290 kg và dài khoảng 2,1 mét (độ dài bao gồm đầu và thân), và là tương tự như ngựa nhiều hơn. So với ngựa thì chân của chúng ngắn hơn và màu lông của chúng dao động phụ thuộc theo mùa. Nói chung, lông của chúng có màu nâu ánh đỏ trong mùa hè, trở thành nâu ánh vàng trong các tháng mùa đông. Chúng có sọc màu đen có viền màu trắng mở rộng xuống phía dưới của đoạn giữa lưng.

Lừa rừng Trung Á đã được người Sumer cổ đại sử dụng để kéo xe kể từ khoảng năm 2600 TCN.

license
cc-by-sa-3.0
copyright
Wikipedia tác giả và biên tập viên
original
visit source
partner site
wikipedia VI